Sống và viết trên quê hương

14:45 19/09/2023

NGUYỄN KHOA ĐIỀM

(Trích Báo cáo tại Hội nghị thành lập Chi hội Nhà văn Bình Trị Thiên do Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trình bày)

Ảnh: tư liệu

... Nếu văn học là một kết cấu đặc biệt của chính cuộc sống thì nhà văn có nghĩa vụ nặng nề trước hàng triệu công chúng là chủ thể sáng tạo cuộc sống đó, hiện thân của cuộc sống đó.

Một câu hỏi được đặt ra là công chúng hôm nay mong muốn điều gì trên mỗi trang viết của chúng ta? Thiết nghĩ, có thể xác định 3 vấn đề:

- Một là: người đọc muốn bắt gặp thái độ phân minh, rạch ròi của nhà văn trong việc định rõ các giá trị xã hội của con người, sự vật, hiện tượng đang không ngừng biến đổi trước sức mạnh tự nhiên, xã hội và khoa học kỹ thuật, để từ đó chỉ dẫn cho họ những tìm kiếm tích cực hơn, có ý nghĩa hơn.

- Hai là: người đọc muốn nhìn thấy ở nhà văn một sự quan tâm sâu sc đến mỗi s phận con người, sức phát hiện những vấn đề đặt ra trước mỗi một nhân cách để từ đó dấy lên những sức mạnh mới mẽ, thậm chí chưa từng biết đến, góp vào toàn bộ cuộc sống chung.

- Ba là: người đọc muốn nhà văn giúp họ nối kết, bắt rễ vào lịch sử, vào truyền thống văn hóa, khả dĩ nâng đỡ con người tồn tại vững vàng hơn, sâu xa hơn, vượt lên trên mỗi biến cố, sự kiện hằng ngày chóng qua.

Có thể hình dung ba vấn đề trên như mối tương quan “ba chiều” giữa xã hội - cá nhân - lịch sử, một cấu trúc đảm bảo sự tồn tại của con người. Có thể tin rằng một nền văn học lớn sẽ là nền văn học đủ sức đối thoại với người đọc trên 3 vấn đề cơ bản đó và do đó có thể làm giàu cho đời sống tinh thần của con người. Vấn đề mấu chốt đặt ra ở đây là chừng nào mỗi người viết chúng ta trang bị đầy đủ cho mình thế giới quan của chủ nghĩa Mác-Lê-nin, phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa và một thái độ dấn thân tích cực vào thực tiễn cách mạng thì chừng đó chúng ta mới có được sức mạnh chân chính của một cuộc đối thoại lớn.

***

Những bước đi của lịch sử đất nước đã để lại những dấu ấn không phai mờ trên mảnh đất Bình Trị Thiên chúng ta. Từng là vùng đất “phên dậu” buổi đầu, cho đến khi là bàn đạp vào Nam ra Bắc của cha ông xưa, nơi đây đã diễn ra biết bao trận quyết chiến chiến lược và cũng là nơi chịu đựng những cuộc phân cực lớn nhất trong lịch sử, cũng là nơi khơi đi tuyến đường Hồ Chí Minh vang dội thế kỷ này; mảnh đất chúng ta chính là nơi những giá trị Việt chịu những thử thách thật quyết liệt và định hình thật gân guốc. Con người Bình Trị Thiên sống gian lao giữa bão lụt triền miên, gió nam cát trắng, khói lửa chiến tranh, đau thương chia cắt, biến động kinh kỳ... cũng là con người sống hào hùng với buổi Nguyễn Huệ lên ngôi, mùa thu tháng Tám toàn dân khởi nghĩa và cũng là con người sống sâu xa nhuần nhị với cả kho tàng nghệ thuật cổ điển và dân gian phong phú, với tất cả thiên nhiên tươi đẹp. Trong cốt cách tâm hồn con người xứ Huế chúng ta dễ nhận ra nét đôn hậu giàu sức cảm thông, thái độ coi trọng các giá trị tinh thần và sự lắng đọng nội tâm, khả năng tinh tường về đời sống tâm lý và vẻ uyển chuyển trong xem xét lĩnh hội các sự vật, hiện tượng. Đó là một công chúng lớn của văn hóa và văn học.

Được soi sáng tiếp sức từ trí tuệ cách mạng và tâm hồn nhân dân, đại bộ phận anh chị em viết văn Bình Trị Thiên có mặt hôm nay đều bắt đầu nghề nghiệp của mình từ những ngày kháng chiến, người có tuổi thì kháng chiến chống Pháp, người trẻ hơn thì kháng chiến chống Mỹ. Hình như nếu không có kháng chiến thì không có những người viết chúng ta hôm nay. Và cũng hình như nếu không lớn lên trên chính mảnh đất này, gắn bó với đời sống văn nghệ có gốc rễ sâu xa của nó thì cũng không thể có đội ngũ cầm bút hôm nay. Nhiều năm dài chúng ta đã viết trong bom đạn, dưới hầm hào, giữa lòng đô thị rực lửa xuống đường, đã sống với ba-lô và khẩu phần người lính. Chúng ta sống với nhân dân và nói tiếng nói của người chiến đấu. Anh Thanh Hải đã làm thơ về cơn sốt rừng và ngày về Huế anh mất đi cũng vì di hại những cơn sốt đó, để lại trong lòng chúng ta xúc cảm không nguôi về một cách sống và thái độ sáng tạo đẹp đẽ. Các anh Hồ Vy, Dương Tường, Trần Quang Long, Ngô Kha, Dương Tử Giang chưa kịp viết nhiều trước ngày ngã xuống, nhưng mỗi bài thơ các anh còn trẻ trung một thời thi sĩ của các chàng trai Huế ngày nào lên đường.

Nhìn lại hơn 30 tập sáng tác gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, trường ca, bút ký, kịch bản văn học... được viết ra từ những năm tháng gian lao đó chúng ta có quyền vui mừng về cuộc gặp gỡ đầu tiên của mình với cách mạng và văn học và ghi nhớ mãi về một cách sống và viết mà chúng ta đã chọn đúng.

Nhắc lại những trang viết từ chiến tranh những người viết văn Bình Trị Thiên chúng ta không quên hình ảnh nhà văn cả nước đã đến bên mình nói lời tình nghĩa, giúp đỡ, dìu dắt mỗi anh chị em và nêu cao tấm gương sáng tạo. Chúng ta nhớ mãi hình ảnh các anh ngày nào trên chiến khu Cùa, Dương Hòa, trên đất lửa Quảng Bình, Vĩnh Linh, trên tuyến đường 559 và đường 9 anh hùng, dưới mái lá Trường Sơn và trên một vùng Quảng Trị ngày đầu giải phóng...

10 năm lại đây chúng ta hăm hở bước vào một thời kỳ mới. Nhớ ngày nào trở lại trước mắt chúng ta 3 đô thị của tỉnh nhà chỉ còn là một đống gạch vụn và thành phố duy nhất còn lại - Huế - cũng xơ xác, hoang tàn sau bao lần bom đạn, “di tản”. Ở các làng quê mìn dày đặc trong vườn, ngoài ngõ. Bao nhiêu gia đình không có người về, bao nhiêu người không có việc làm. Kẻ thù lại dấy lên những cuộc chiến tranh mới. Chúng ta đã sống với tất cả nỗi cao cả và gian khó của nhân dân, gắn bó thiết thân với một tổ chức Đảng kiên cường, những trang viết của chúng ta lần đầu vươn tới cái bộn bề và đa dạng của cuộc sống. Cũng như những năm chiến tranh, trong 10 năm qua nổi lên điều đáng quí là những cây bút của chúng ta - dám chấp nhận sự có mặt bền bỉ của mình trên một mảnh đất, khao khát đi tới gốc rễ cái thế giới con người mình từng lựa chọn, tin tưởng ở chiều dày của các truyền thống văn hóa và sự độ lượng của tương lai. Chúng ta ít nhiều biết lo cho nhau và lo cho người trẻ hơn. Chúng ta góp sức xây dựng Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên cái nôi những buổi đầu văn học của chúng ta, xây dựng tạp chí Sông Hương, tích cực cộng tác với Nhà xuất bản Thuận Hóa. Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh cùng các cơ quan hết lòng giúp đỡ, thông cảm, chăm sóc những nhà văn của mình. Rõ ràng chúng ta đã chuẩn bị đủ cho mình những tình cảm cùng thái độ và điều kiện làm việc cần thiết để có thể sáng tạo lâu dài cho một vùng đất, cho nền văn học nước nhà. Lực lượng tác giả thơ của ta ổn định và có sức tìm tòi, vươn tới. Lực lượng văn xuôi bắt đầu có người chuyên sâu trên mặt trận công nghiệp, nông nghiệp và viết về chiến tranh. Lực lượng phê bình nghiên cứu dịch thuật đang định hình. Chúng ta đang phát hiện và bồi dưỡng nhiều cây bút trẻ có dấu hiệu tốt. Liên tiếp những năm gần đây các nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, Xuân Đức, Lâm Thị Mỹ Dạ đã nhận được giải thưởng của Hội Nhà văn, nhà văn Nguyễn Khắc Phê nhận được giải thưởng của Tổng Công đoàn. Nhà văn Tô Nhuận Vỹ và Mai Văn Tấn được Trung ương Đoàn tặng huy chương “Vì thế hệ trẻ” do những đóng góp văn học cho tuổi trẻ. Nhiều tác phẩm của các nhà văn Bình Trị Thiên được giới thiệu ra nước ngoài.

Chúng ta hiểu rõ những nhược điểm của mình, mà có lẽ cái quan trọng nhất là sự thiếu hụt những hiểu biết phong phú về một đời sống lớn và khả năng tổng hợp tất cả thành những giá trị tinh thần sâu xa theo một quan niệm sống thực sự vững vàng.

Nhưng chúng ta tin tưởng ở chính mình bởi vì chúng ta tin tưởng ở cuộc sống và dám gắn mình với cuộc sống cao cả dữ dội của nhân dân trên mảnh đất này.

***

Việc Hội Nhà văn Việt Nam quyết định thành lập Chi hội Nhà văn Bình Trị Thiên đã khẳng định sự có mặt cần thiết của anh chị em cầm bút trên một vùng văn hóa, đem lại lòng tin và những điều kiện làm việc mới. Chúng ta đã có một tổ chức; một tổ chức khiêm nhường gồm 17 nhà văn. Nhưng chúng ta quí trọng tổ chức hôm nay với tình cảm của những người từng biết đến giá trị và sức mạnh của những tổ chức cách mạng đầu tiên được nhen nhóm trong vùng trắng ngày trước.

Cố gắng của Chi hội chúng ta là hết sức chăm lo cho công việc của nhau để cho người nào cũng viết được nhiều, viết hay về Bình Trị Thiên và Tổ quốc thân yêu của mình. Bằng cố gắng cá nhân mỗi nhà văn và sức mạnh tổ chức, chúng ta làm tốt hơn nữa vai trò nòng cốt trong phong trào văn học tỉnh nhà, liên kết với các nhà văn gần xa, chăm lo giúp đỡ các bạn viết trẻ, chủ trì các sinh hoạt nâng cao nghề nghiệp văn học. Chi hội sẽ thường xuyên liên hệ và tranh thủ sự giúp đỡ chỉ đạo của trung ương Hội, đặt mình trong cơ chế lãnh đạo của tỉnh, là thành viên tích cực của Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên.

Để đánh dấu năm 1985 lịch sử, Chi hội đề nghị các nhà văn tham gia xây dựng một công trình tập thể: “Kỷ niệm những ngày sống và viết trên mảnh đất Bình Trị Thiên”, dự kiến phát hành nhân 40 năm cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9. Nhân dịp này chúng tôi trân trọng mời các đồng chí trong Ban chấp hành Hội Nhà văn và các nhà văn trong nước đã ít nhiều có mặt trên mảnh đất Bình Trị Thiên tham gia vào tập sách để cùng nhắc nhở những năm tháng không quên trong đời sống văn học chúng ta...


N.K.Đ
(TCSH12/04-1985)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)