Sông Hương & Những định ngữ thi ca

14:38 17/10/2008
HẢI TRUNGSông chảy vào lòng nên Huế rất sâuBản hùng ca của dãy Trường Sơn đã phổ những nốt dịu dàng vào lòng Huế, Hương Giang trở thành một báu vật muôn đời mà tạo hóa đã kịp ban phát cho con người vùng đất này. Chính dòng Hương đã cưu mang vóc dáng và hình hài xứ Huế. Con sông này là lý do để tồn tại một đô thị từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và sau này là Kinh đô Huế, hình thành phát triển đã qua 700 năm lịch sử.

Nguyên xưa, dòng sông này có nhiều tên gọi, trong Ô Châu Cận Lục, Dương Văn An chép là sông Linh Giang. Theo dòng sử liệu, dòng sông này còn có các tên khác như sông Lô Dung, sông Dinh, sông Kim Trà và sau này mới được đổi thành Hương Giang như ngày nay.
Từ thượng nguồn đến hạ nguồn, sông Hương dài khoảng 100 km. Bắt đầu từ hai nguồn lớn, Tả Trạch và Hữu Trạch hợp với nhau tại ngã ba Bằng Lãng, từ đây với độ dài khoảng 30 km, sông Hương trở nên dịu dàng chảy vào lòng Huế rồi ầm ào ra biển Thuận An. Mang theo những phù sa của thiên nhiên, sông Hương quanh co chảy về biển khơi, tạo nên những làng mạc trù phú hình thành và phát triển từ bao đời nay.
Đoạn sông từ Kim Long đến Vĩ Dạ là điểm nhấn quan trọng và điển hình nhất của vẻ đẹp sông Hương, nhẹ nhàng thanh thoát như một tấm lụa của thiên nhiên. Từ những năm đầu tiên của thế kỷ XIX, khi xây dựng Kinh Thành Huế, các nhà kiến trúc đã chọn sông Hương làm yếu tố minh đường, là một yếu tố không thể thiếu trong quan niệm về thuật phong thủy lúc bấy giờ. Hai bên trước Kinh Thành là Cồn Hến và Cồn Dã Viên được xem là tả Thanh Longhữu Bạch Hổ, tạo nên cái thế vững chãi về tâm linh cho cả cụm kiến trúc Kinh Thành Huế.

Sông dài như kiếm dựng trời xanh
Sông Hương không chỉ là môi sinh lý tưởng của con người, nó còn là một biểu tượng thẩm mỹ của người dân xứ Huế. Sông đã chở trên mình những vỉa phù sa văn hóa, để nối từ thế hệ này sang thế hệ khác từng lớp quặng, cô lắng trong nhiều loại hình nghệ thuật, mà thơ ca là một điển hình.
Nhắc đến sông Hương, người ta nghĩ ngay đến con sông của thi, ca, nhạc, họa. Dòng sông này đã chở biết bao hứng khởi từ những tâm hồn lãng mạn.
Sông Hương với Tiên Điền Nguyễn Du, trong một dịp thu đến(1) thì: Hương Giang nhất phiến nguyệt/ Kim cổ hứa đa sầu: Một tấm trăng Hương Giang/ Xưa nay gieo nhiều nỗi buồn.

Những câu thơ tả cảnh rất tinh tế với những phát hiện mà đến bây giờ vẫn còn rất mới về dòng Hương. Nỗi sầu trong câu thơ không là một nỗi sầu cô quạnh, đơn độc, mà đó là cái sầu bi mang tính mỹ học, cái sầu trong cô tĩnh luôn làm trăn trở thi ca. Nhà thơ đau đáu một niềm nhân thế, đau đáu về thời vận, đau đáu về những mâu thuẫn giữa hiện thực và lý tưởng.

Sông Hương với Chu Thần Cao Bá Quát, trong một Buổi sớm qua sông Hương(2) thì: Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền/ Trường giang như kiếm lập thanh thiên: Muôn dãy non xanh ngát cánh đồng/ Sông dài như kiếm dựng trời xanh.
Thi sĩ thể hiện hạo khí của kẻ sĩ qua hình ảnh ví von sông dài như kiếm dựng trời xanh, đã làm nên một tượng đài ngôn ngữ muôn đời của dòng Hương. Sông thì như lưỡi kiếm, gió thì như chiếc gối, để thi nhân mơ mòng về nhân thế. Thi nhân Nương trận Nam Phong gối giấc nồng(3) như trước ông mấy thế kỷ, một danh sĩ Việt Nam là Trần Quang Khải từng Đè ngang ngọn gió đọc thơ chơi.
Đó là những hình ảnh đẹp và giàu tâm trạng.
Không gian nghệ thuật của Nguyễn Du và Cao Bá Quát được xác lập trên cơ sở của điểm nhìn, điểm ngắm của chủ thể sáng tạo (so với khách thể thẩm mỹ).

Căn cứ vào nội dung của toàn bài, điểm nhìn, điểm ngắm của Nguyễn Du là “ở trên bờ”, ở đây, nhãn tự trong bài thơ Thu chí của Nguyễn Du là:
phiến: mảnh, tấm, nó gợi lên một vật thể chiếm một diện tích theo chiều rộng trong không gian, phiếm chỉ sự dàn trải, mênh mông: Hương Giang nhất phiến nguyệt: một tấm trăng Hương Giang. Câu thơ thể hiện rõ nét quá trình xác lập tứ thơ: phiến nguyệt - tâm hồn - tỏ chí. Đó cũng là một quá trình vận động của tư duy, của sáng tạo, và tứ thơ ở đây là một ý chí vằng vặc (như trăng ở sông Hương).
Cũng
căn cứ vào nội dung của toàn bài, điểm nhìn, điểm ngắm của Cao Bá Quát là “ở giữa dòng” (trên thuyền), ở đây, nhãn tự trong câu thơ, bài thơ Hiểu quá Hương Giang của Cao Bá Quát là: trường: dài, xa, nó gợi lên một vật thể chiếm một diện tích theo chiều dài trong không gian, phiếm chỉ sự sâu thẳm, tít tắp: Trường giang như kiếm lập thanh thiên: sông dài như kiếm dựng trời xanh. Câu thơ cũng thể hiện rõ nét quá trình xác lập tứ thơ: trường giang - tâm hồn - tỏ chí. Đó cũng là một quá trình vận động của tư duy, của sáng tạo, và tứ thơ ở đây là một ý chí thăm thẳm (như dòng sông Hương)(4).

Với sông Hương, Cao Bá Quát còn có chùm thơ 10 bài tạp vịnh về Hương Giang(5). Qua những bài thơ này, chúng ta có thể cùng ông du lãm với sông Hương đến các địa danh như Kim Long, Hoàng Thành, Gia Hội, Bao Vinh. Du lãm để suy gẫm về nhân tình thế thái, để ngẫm nghĩ chuyện đời. Ví như:
Nhất đới duyên giang giáp đệ hùng/ Ngũ quân khai phủ chiếu tây đông/ Vinh khô tứ thập dư niên sự/ Chỉ kiến hà hoa tự cựu hồng: Ven sông lầu gác trập trùng/ Đồn quân, dinh tướng tây đông mấy toà/ Thịnh suy bốn chục năm qua/ Riêng sen vẫn giữ màu hoa đỏ hồng.

Dòng Hương còn là nơi các công trình kiến trúc truyền thống, những di tích cố đô Huế soi bóng và tự kiểm chứng lại mình. Con sông đã xe duyên nối các công trình với nhau thành một thể. Từ thượng nguồn sông Hương là một yếu tố cảnh quan gắn với các lăng tẩm xứ Huế như lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, theo dòng chảy về khơi lại tiếp tục gắn với một phức hệ kiến trúc như điện Hòn Chén, Văn Miếu, Võ Miếu, chùa Thiên Mụ... Phóng tầm mắt từ Kỳ Đài, sông Hương lại có một vẻ đẹp mới với một hệ thống công trình bao bọc điểm xuyết: từ Phu Văn Lâu đến Nghinh Lương Đình, từ cầu Trường Tiền đến thảm cây xanh dọc đôi bờ, xa hơn nữa là đỉnh Ngự Bình đã tạo nên một chỉnh thể hài hòa không có cơ hội để cắt xén. Do vậy, sông Hương cùng với núi Ngự, cầu Trường Tiền đã trở thành những biểu tượng tình cảm của Huế.

Trên điện Thái Hòa cũng xuất hiện 5 bài thơ ngũ ngôn tuyệt cú viết về sông Hương của các vị vua triều Nguyễn với tính chất vịnh cảnh để tỏ chí là một trong những đặc trưng của dòng văn học trung đại. Điển hình như:     
- Giang hà thông chúng thủy/ Bình chướng liệt quần sơn: Hương Giang mạch nước nối dòng/ Ngự Bình tiếp tiếp tầng không chan hòa.
- Trản lãnh lăng hư thú/ Hương giang triệt để thanh: Núi Trản điệp cả màu châu/ Sông Hương in bóng đáy sâu trong lành.
- Hương thủy đà Ngân đới/ Bình sơn kháng ỷ lưu: Sông Hương tiếp dải ngân hà/ Ngự Bình giăng mắc nắng qua lụa mềm v.v.


Trong tác phẩm Thần Kinh nhị thập cảnh(7) viết về 20 danh thắng của cố đô xưa, bài thơ Hương Giang hiểu phiếm(8) của vua Thiệu Trị không chỉ là một bài vịnh cảnh thuần túy. Nhà vua mượn việc tả cảnh để bày tỏ cái chí của mình, qua sông Hương vào buổi sớm, đã thấy trời đông hửng ánh dương. Đó là ánh dương của một triều đại, một bình minh lịch sử mà nhà vua là người đứng đầu của triều đại đó. Bài thơ được khắc trên bia đá đặt bên cạnh Phu Văn Lâu, ngày nay vẫn còn chứng tích: Nhất phái uyên nguyên hộ đế thành/ Thanh lưu sấn tảo nhạ lương sinh (…) Kỷ hồi hà hiết thương lang khúc/ Song khuyết phương thăng thụy nhật minh: Ôm lấy Kinh đô nước uốn dòng/ Thả thuyền ban sớm nhẹ thong dong (…) Bao lâu nào rõ dòng chưa dứt/ Đã thấy trời đông hửng ánh dương.

Nhà thơ Thiệu Trị quan sát thiên nhiên, quan sát sông Hương bằng một trực cảm tinh tế, nắm bắt kịp thời những chi tiết, những hình ảnh mà đôi khi chỉ ngưng tụ trong một khoảnh khắc: Thiên tửu vị can nhu ngạn thụ/ Sơn hoa do luyến kết vân anh: Cây cối vấn vương sương vẫn đẫm/ Cỏ hoa quyến luyến mây còn ngưng. Chỉ qua những hình ảnh mang tính gợi tả, nhưng vẫn khắc họa rất thành công những nét “sở thuộc” của sông Hương bằng bút pháp tinh tế và tình cảm chan chứa của nhà thơ.
Dòng sông Hương còn là một chứng nhân lịch sử, nó chở trên mình những chuyện vui buồn của thời gian. Trong lịch sử, dòng sông đã chở và chứng kiến biết bao câu chuyện nổi trôi đầy thân phận. Thảo Am Nguyễn Khoa Vy viết: Núi Ngự không cây cu ngủ đất/ Sông Hương vắng khách đĩ kêu trời. Nhà thơ Tố Hữu viết: Trên dòng Hương Giang/ Em buông mái chèo…rồi Tình ơi gian dối là tình/ Thuyền em rách nát còn lành được không (Cô gái sông Hương). Đó là những cái nhìn nhân văn đầy cảm thông trước những phận gái giang hồ một thuở nào.

Ngay từ thời quân chủ, thân phận ấy cũng được bày ra trong những cảm thông xa xót của Uy viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ. Nguyễn Công Trứ, dù sử dụng bút pháp hoạt kê, trào phúng nhưng bài thơ không vì vậy mà kém phần nhân văn. Thử xem: Trên sông một chiếc thuyền lan(9)/ Một cô gái Huế một quan đại thần/
Ban ngày quan lớn như thần/ Ban đêm quan lại tần mần như ma/ Ban ngày quan lớn như cha/ Ban đêm quan lại rầy rà như con. (10)
Sông Hương như thể chiếc gương góa chồng
Cảm hứng về dòng sông Hương vẫn còn chảy mãi đến tận nhiều đời tiếp nối. Theo những chuyến đò dọc, đò ngang, sông Hương cũng đã làm nên những điệu dân ca còn lưu truyền mãi. Hò mái nhì, mái đẩy cùng một số làn điệu khác là những điển hình cho điệu hò sinh thành trên sông nước. Và rất nhiều khúc ca, bản nhạc, tác phẩm mỹ thuật hình thành trên cảm hứng về dòng sông này.

Nhạc sĩ, họa sĩ, thi sĩ Văn Cao đã từng du lãm với mùa thu sông Hương bằng Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, để khi xa rồi, thi nhân cứ day dứt mãi và cuối cùng phải buột lên rằng: Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh.
Em cạn lời thôi anh dứt nhạc
Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh
Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh

Sông Hương với những khoảnh khắc của thời gian, với những quãng ngắt của không gian, luôn có thể tác động lên những tâm hồn lãng mạn. Ai từng sống với dòng sông này, luôn có thể bất chợt phát hiện ra rằng, sông Hương mỗi ngày thêm mỗi mới. Sau chiều nay, còn buổi chiều khác nữa/ Có thể mây cao, có thể nắng vàng trong bài thơ Chiều Hương Giang của Nguyễn Khoa Điềm là những khoảnh khắc về thời gian và quãng ngắt về không gian nghệ thuật làm nền cảm hứng của thi sĩ. Khoảnh khắc nhưng chiều nay vô tình trong nắng muộn/ Mắt tôi nhìn trong suốt nước Hương Giang là những phát hiện rất mới của thi sĩ.

Sông Hương vốn được biết bao ngôn từ dùng để ví von nhằm khắc họa hết tất cả những cái duyên ngầm và thi vị của nó, như đó là Điệu slow tình cảm; đó là người tài tử đánh đàn lúc đêm khuya, như đó là tấm lụa mềm vắt ngang thành phố với những lời ru vỗ du dương dành cho nó.
Với nhà thơ Thu Bồn, thì sông Hương là một hiện thực tâm hồn, nhà thơ viết: Con sông dùng dằng con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu. Phát hiện mới mẻ này đã làm bàng hoàng cả một diễn trình mỹ từ dành cho sông Hương. Đây là một phát hiện tinh tế, và tinh tế hơn khi thi sĩ đã nhận thức rất rõ rằng: sông Hương đã góp phần làm nên văn hóa Huế, Huế rất sâu là Huế của những tầng vỉa văn hóa truyền thống. Nhà thơ tạm biệt Huế, tạm biệt dòng Hương để ngẩn ngơ, lưu luyến đến nỗi đã hóa đá phía bên kia của ngọn Hải Vân hùng vĩ. Em trong bài thơ cũng chính là dòng Hương cùng tác giả tình tự.
Tạm biệt Huế với chiếc hôn thầm lặng
Anh trở về hóa đá phía bên kia.
(Tạm biệt)

Mỗi một nhà thơ đều có một cách bày tỏ xúc cảm trước dòng Hương Giang trữ tình. Nhà thơ Huy Tập đã giả định rằng, nếu như chẳng có sông Hương, thì không biết: gửi tình cho Huế, gửi thương nơi nào? Và cuối cùng là Nếu như chẳng có dòng Hương/ Câu thơ xứ Huế giữa đường đánh rơi. Nhà thơ xem dòng sông này là duyên cớ của những tứ thơ về Huế và do vậy sông Hương đã trở thành nỗi đam mê của thi nhân, trở thành duyên cớ gửi trao tình cảm.
Nguyễn Xuân Sanh lại có một định ngữ khác: Ai đến bên, lòng ta khẽ bảo/ Con đò: con mắt của sông Hương. Đến Huế, đến với sông Hương, thi sĩ nhận ra rằng, những con đò là hình ảnh gắn kết dòng sông này để làm nên tứ thơ: con đò - con mắt. Đó cũng là một định ngữ chính xác về không gian của sông Hương. Lại giả định rằng, nếu trên dòng sông này thiếu vắng những con đò thì ra sao nhỉ?
Ôi con đò con mắt yêu thương
Nhìn chúng ta say đắm lạ thường
Ai đến bên, lòng ta khẽ bảo:
Con đò: con mắt của sông Hương!

Riêng với sông Hương,
Trương Nam Hương lại có một định ngữ khác về dòng sông này: Hương Giang như thể chiếc gương góa chồng. Bài thơ thể hiện nỗi niềm thế sự được trình bày, hóa giải với sông Hương bằng một cái tôi trữ tình, cái tôi đối thoại với dòng sông.
Bao nhiêu hưng phế, thịnh suy không ai lường hết được, đó là quy luật. Nhà thơ hoài niệm về quá khứ, liên hệ với hiện tại để thức nhận rằng:
Khói sương dâu bể toan cầm
Lại e vương nỗi thăng trầm ngón tay
Chẳng hòa tan được rủi may
Huế cho không cả ly đầy… bóng vua
.
(Riêng với sông Hương)
 Khó có thể kể hết tất cả những hình ảnh đẹp đã trở thành định ngữ về dòng sông Hương trong lịch sử thi ca.

Bởi lẽ, mỗi một nhà thơ, khi đến với dòng sông này đều bị mê hoặc với sự huyền ảo của không gian tương tác giữa toàn bộ khách thể thẩm mỹ và chủ thể nhận thức. Đó là chiếc cầu nối đồng hiện của hai chiều hiện thực và tâm hồn.
Bởi lẽ, sông Hương tự bao đời như đã là di sản của tâm linh, của hiện thực đời sống Huế.
Êm đềm theo thời gian, sông Hương đã cuộn lên một dòng chảy văn hóa đầy sức sống.
             H.T

(nguồn: TCSH số 220 - 06 - 2007)

 




------------------------------
 (1) 
Dịch từ nhan đề một bài thơ của Nguyễn Du (Thu chí)
(2) Dịch từ nhan đề một bài thơ của Cao Bá Quát (Hiểu quá Hương Giang)
(3) Nguyên văn: Phả ái nam phong giác chẩm biên.

(4) Cũng có quan điểm cho rằng, nhãn tự của bài thơ này là (kiếm), nhưng bản chất của tứ thơ được xác lập ngay từ đầu là trường giang (sông dài), cái “sự dài” đã trở thành đường dẫn để bắt đầu, cái “sự dài” tác động trực tiếp để có hình ảnh gián tiếp mang tính so sánh, định dạng là kiếm. Do vậy, chữ trường phải hiểu là nhãn tự, có tính quyết định, chi phối, nó làm ám ảnh thi nhân và làm nảy sinh tứ thơ.
(5) Hương Giang tạp vịnh.
(6) Nguyên văn: Giải đảo đông phong, phú nhất thi: Đè ngược ngọn gió đông mà ngâm một bài thơ.
(7)
Thần Kinh nhị thập cảnh: Hai mươi cảnh đất Thần Kinh.
(8)
Hương Giang hiểu phiếm: Buổi sớm du thuyền trên sông Hương
(9) Thuyền lan: có bản chép là thuyền nan.
(10)
Như con: có bản chép là hơn con. Bài này không có đầu đề, phần chữ Nôm do chúng tôi lập vì không có bản gốc.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÝ HOÀI THU“Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” ( *) (nguyên bản: Hoàng Hà luyến, Hồng Hà tình) là tác phẩm hồi ký của bà Trần Kiếm Qua viết về lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn và đại gia đình Trung Việt của ông. Bằng sức cảm hoá của những dòng hồi ức chân thực, tác phẩm của phu nhân tướng quân đã thực sự gây xúc động mạnh mẽ trong lòng bạn đọc Việt .

  • NGUYỄN BÙI VỢICách mạng tháng Tám thành công, Phùng Quán mới 13 tuổi. Mồ côi cha từ năm 2 tuổi, cậu bé sinh ra ở làng Thuỷ Dương xứ Huế chỉ được học hết tiểu học, sáng đi học, chiều giúp mẹ chăn trâu, có năm đi ở chăn trâu cho một ông bác họ.

  • TRẦN HUYỀN SÂM Người tình là một cuốn tiểu thuyết hiện đại nổi tiếng của M.Duras. Tác phẩm đoạt giải Goncourt 1984, và đã từng gây một làn sóng xôn xao trong dư luận. Người tình được tái bản nhiều lần và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tác phẩm cũng đã được chuyển thành kịch bản phim 1992 (qua đạo diễn Jean-Jacques Annaud).

  • ĐÀO NGỌC CHƯƠNGCho đến nay những ý kiến về phương diện thể loại của tác phẩm Chơi giữa mùa trăng của Hàn Mặc Tử vẫn chưa thống nhất. Theo Trần Thanh Mại, đó là bài văn xuôi: “Nay xin đơn cử ra đây một vài đoạn của một bài văn xuôi của Hàn để chứng tỏ thêm cái sức cảm thụ vô cùng mãnh liệt ở nơi nhà thơ lạ lùng ấy.

  • TRẦN NHẬT THƯTrong tiến trình nghệ thuật nhân loại, bên cạnh một thế giới hết sức “quan phương”, “hoàn kết” bao giờ cũng là một “thế giới lộn trái” đầy mê hoặc.

  • NGUYỄN XỚNXét trên quy mô toàn cầu, vào những năm cuối của thế kỷ XX, trước sự phát triển phi mã của công nghệ và ý thức máy tính, văn học đã biểu hiện nhiều vấn đề rất đáng quan tâm. Thực tế này được mang vào thế kỷ mới một cách dễ dàng, không hề gặp một sự kiểm soát nào.

  • BÙI MINH ĐỨCLGT: Công trình khảo cứu dưới đây, phần lớn đã được công bố trong Hội thảo khoa học “Tây Sơn - Thuận Hóa và Anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ - Quang Trung”. Một số báo, tạp chí đã lược trích đăng một phần bài viết. Mới đây, tác giả-bác sỹ Bùi Minh Đức (Hội viên Hội Tai Mũi Họng và Đầu Cổ Hoa Kỳ (Fellow), Hội viên Hội Mũi Học Hoa Kỳ (Fellow), Hội viên Hội Tai Mũi Họng và Đầu Cổ Đức Quốc (FachArzt HNO), nguyên Chủ nhiệm Bộ Môn Tai Mũi Họng, Đại học Y Khoa Huế trước 1975) đã gửi cho SÔNG HƯƠNG công trình khảo cứu này (có sửa chữa và bổ sung) để độc giả tạp chí có đầy đủ tư liệu. Trân trọng những lý giải khoa học hết sức mới mẻ của tác giả, SÔNG HƯƠNG xin giới thiệu toàn văn công trình này.

  • BỬU NAM Gặp Trần Đình Sử trong một hội thảo lớn toàn quốc, hội thảo "Tự sự học" do anh đồng khởi xướng và đồng tổ chức, tôi xin anh một cuộc trò chuyện về tình hình lý luận và phê bình văn học hiện nay. Anh vui vẻ gật đầu và nói: "Gì thì gì không biết, chứ với Tạp chí Sông Hương, tôi không thể khước từ. Trước hết, đây là một tạp chí văn học đứng đắn, có sắc thái riêng, vả lại còn là tình cố hương, bởi dù gì thì gì tôi vẫn là người con của xứ Huế cố đô."

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO(Nhân đọc 2 bài viết của Nguyễn Thanh Sơn và Nguyễn Hòa)*

  • PHẠM PHÚ PHONGNguyễn Huy Thiệp là một trong những hiện tương văn học hiếm hoi. Ngay từ những truyện ngắn đầu tay như Huyền thoại phố phường, Muối của rừng, Tướng về hưu... tên tuổi của anh đã nổi bật trong và ngoài nước.

  • PHONG LÊ(Nhìn từ bình diện ngôn ngữ)Dân tộc là một phạm trù lịch sử. Văn học dân tộc do vậy cũng là một phạm trù lịch sử, hình thành và phát triển theo lịch sử.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN“…Tất cả những sự cách tân này cần thiết cho sau đó một chủ nghĩa cổ điển mới có thể xuất hiện…”            Paul Valéry

  • TRẦN HUYỀN SÂMNgười ta nói “Phê bình là bà đỡ cho tác phẩm”, nhưng người ta cũng nói: “Nhà phê bình là con chó ăn theo nhà văn”.

  • NHỤY  NGUYÊN thực hiện

     

    Thi nhân Việt Nam hiện đại  - bộ bản thảo trường thiên hoành tráng về nền thi ca Việt hiện đại dự tính 4.000 trang khổ 15,5 x 20,5 cm, bao gồm 2.200 trang tiểu luận và 1.800 trang tuyển thơ của nhà phê bình văn học Thái Doãn Hiểu.

  • NGUYỄN VĂN THUẤNLTS: Nhóm nghiên cứu, lý luận phê bình trẻ” bao gồm sinh viên và cán bộ giảng dạy trẻ đến từ các trường đại học ở Huế (chủ yếu là Khoa Ngữ văn - ĐHSP Huế), với sự chủ trì của Ts. Trần Huyền Sâm. Nhóm hình thành trong tháng 6 - 2008 vừa qua với sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương và Nhà sách Cảo Thơm.

  • Trong hoạt động văn học, cùng với mối quan hệ giữa tác phẩm với hiện thực, tác phẩm với nhà văn, mối quan hệ giữa tác phẩm và bạn đọc cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong quy trình vận hành từ hiện thực - nhà văn - tác phẩm đến bạn đọc.

  • LTS: Ngày 19/12/2007, Ban Bí thư Trung ương Đảng quyết định thành lập Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật. Sau một thời gian chuẩn bị chu đáo, Hội đã có buổi ra mắt nhân dịp gặp mặt thân mật đại biểu cơ quan báo chí toàn quốc vào ngày 20/5/2008.Chúng tôi xin lược trích bài phát biểu của đồng chí Phùng Hữu Phú - Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương.

  • Thuyết phân tâm học của S.Freud và về sau là C.G.Jung và các người kế nghiệp đã có ảnh hưởng sâu rộng đến tư tưởng của con người hiện đại, bao gồm cả nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực văn học nghệ thuật. Tuy vậy, ở ta, do nhiều lý do chủ quan và khách quan, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về sự ảnh hưởng của phân tâm học trong văn học - nhất là văn học hiện đại Việt .

  • Trong thập niên 1970 danh từ thi pháp (poétique) trở thành thông dụng, thi pháp học dần dần trở thành một khoa học phổ biến, dính liền với ngành ngữ học, trong một khung cảnh học thuật rộng lớn hơn, là khoa ký hiệu học.

  • Bản chất nhận thức của văn học đã được biết đến từ lâu. Hễ nói đến văn học là người ta không quên nói tới các chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ.