Sớm ấy,

10:20 12/03/2009
NGUYỄN THỤY KHAĐàn ngựa cuồng phong lồng về Hà Nội một đợt mưa rét lạnh. Gió thổi mạnh vào khuya khiến lòng người chợt trắc ẩn, thao thức. Có cảm giác như phía Phủ Doãn có một người đang đi trong "Gió nghiêng chiều say, gió lay ngàn cây, gió nâng thuyền mây, gió reo sầu miên, gió đau niềm riêng, gió than triền miên". Ngỡ như ai đó huýt gió giai điệu "Đêm đông" trên đường đêm nơi ngày nào Nguyễn Văn Thương bắt đầu cảm hứng cho tình ca nổi tiếng ấy. Một thoáng mong nhớ về người nhạc sĩ tài năng này.

Nguyễn Văn Thương sinh ngày 22 tháng 5 năm 1919 tại xứ Huế. Tôi thường đùa ông: "Anh với em là trùng mệnh hoả đấy. Nhưng anh là lửa trên trời, còn em là lửa sấm sét. Anh nắng cả ngày. Em chỉ chớp một giây. Bái sư phụ thôi". Đùa vậy mà ông cười: "Nắng nhưng nắng ở Việt ". Quả vậy. Khởi nghiệp từ sau khi tốt nghiệp trung học tại Quốc học Huế, Nguyễn Văn Thương đã viết ca khúc "Trên sông Hương" từ 1936. Đấy là một trong những nhạc phẩm đầu tiên hoài thai tân nhạc Việt . Ở Hà Nội du học, mùa đông 1939, Nguyễn Văn Thương đã cảm xúc nỗi cô đơn của một cô lữ  xa nhà bằng một "Đêm đông" nổi tiếng. Năm ấy "chàng cô lữ" tròn 20 tuổi. Năm 1942, khi làm việc ở Trung tâm Bưu Điện Sài Gòn, ông lại viết "Bướm hoa". Năm nay "Bướm hoa" của ông vừa tròn 60 tuổi. Vậy là ở 3 thành phố lớn của 3 miền đất Việt: Hà Nội - Huế - Sài Gòn, Nguyễn Văn Thương đều đặt được ở đó, dấu ấn âm nhạc của ông.

Nhưng điều kỳ lạ ở ông cũng như ít ỏi các nhạc sĩ thời tiền chiến với bút pháp lãng mạn tưởng chừng khó biến cải, thì chính cuộc trường kỳ kháng chiến đã làm nên sự phi thường ấy. Chẳng ai nghĩ "chàng cô lữ của đêm đông ngày nào" lại có thể thét lên một tráng ca làm rung chuyển mạnh mẽ trong tâm con người yêu nước hồi đó. Làm sao không run lên căm giận khi nghe Nguyễn Văn Thương tả sự: "Làng cháy cây héo khô - Đồng nương nồng hơi súng - xa tắp còn đâu bóng lúa xanh - Nhà thiêu nền trơ đất - Người đi lòng u uất - Sôi cháy máu căm hờn trào dâng..."

Cũng sinh thời, tôi đùa ông: "Bác chơi đến 7 nhát điệp từ Đêm đông khiến chúng dù hát karaoke đi chăng nữa thì cũng phải kiếm ra 7 cách khác nhau hát điệp từ đó. Mệt muốn chết luôn". Ông cười: "Ba hồn bảy vía của Thập loại chúng sinh đấy". Tôi vẫn chưa buông tha: "Nhưng cái cú 7 nhát ấy còn có thể vượt qua. Còn đến vụ hát lên 22 địa danh của xứ Bình-Trị-Thiên em chắc chỉ có Trần Khánh là hát ra được thôi. Còn lại, cố hát đúng nốt của bác là đã phát mệt rồi". Ông trố mắt: "Cậu đếm chúng 22 địa danh thật à - chính mình viết ra mà mình cũng chả biết là bao nhiêu địa danh nữa". Tôi đọc ngay: "Một là sông Hương, hai là Thiên Mụ, ba là Đập Đá...". Ông cười xua tay: "Thôi chịu rồi...". Tôi phân giải: "Nhưng cũng may nhờ Bình-Trị-Thiên khói lửa của bác, đi đến đâu ở xứ này, gặp địa danh trong giai điệu của bác, em tìm hiểu ra được khối thứ. Nếu hành trình du lịch chiến tranh theo đúng địa danh ở Bình-Trị-Thiên khói lửa, sẽ nhận ra xứ này qua một đường xoáy ốc. Thú vị ra phết". Gương mặt ông trầm lại: "Năm ấy, năm 1948, không hiểu sao không chịu đựng nổi nữa, phải thét lên giữa đau thương mất mát". Ông thốt lên rất thật. Cũng năm ấy, Hoàng Cầm đã từng thét lên: "Bên kia sông Đuống". Dường như để giải toả nỗi xúc động bất chợt về quá vãng, tôi lại đùa: "Nhưng bác lại có một bài hát ngắn nhất, ít chữ nhất. Đó là Bài ca trên đỉnh núi. Bài này cho người ta hình dung ra một giai điệu răng cưa. Cưa của bác ngắn nhưng sắc. Chàng nào mà cầm cưa này thì nàng có lim đến mấy cũng phải đổ... kềnh kếnh cang". Ông cười to: "Hay thiệt. Ai cũng đùa vui như vầy, có phải đỡ buồn, có phải khoẻ không?"

Trong các nhạc sĩ tiền chiến tôi từng gặp, tôi kính Nguyễn Xuân Khoát, quý Lê Thương, nể Lê Yên, trọng Nguyễn Văn Thương, mến Dzoãn Mẫn, mộ Nguyễn Đình Phúc, khoái Đỗ Nhuận, thân Văn Cao, phục Tô Vũ, thích Phan Huỳnh Điểu, thương Nguyễn Thiện Tơ, yêu Đoàn Chuẩn... Tôi trọng Nguyễn Văn Thương như một cá tính sáng tạo thực chất, tự xây nên sự nghiệp bằng chính nghệ thuật mình đam mê là nghệ thuật âm nhạc, chứ không ảo tưởng, thích hư danh như nhiều người khác.

Hoá ra tiếng đàn nguyệt và những điệu hò xứ Quảng Thuận với đất Huế thần kinh đã là khởi nguyên cho ánh nắng trời Nguyễn Văn Thương (ông mệnh Thiên thượng hoả) gieo vang mãi cái cung Thương riêng biệt vào đời sáng suốt một ngày dài bằng 83 mùa đông. Ánh nắng trời Nguyễn Văn Thương bắt đầu bằng một bình minh ca khúc đến chói chang một ban trưa giao hưởng soi rọi vào cõi nhân gian đất Việt suốt một thời chiến tranh ly loạn. Để rồi lắng dần, dịu lại cho đến chiều tà như nắng thu Hà Nội mà ông từng viết "Thu Hà Nội, mùa thu tuyệt vời" của những năm tháng thanh bình và hy vọng.

Hành trình âm nhạc của Nguyễn Văn Thương đã khiến người mến mộ âm nhạc ngạc nhiên. Khi tập kết ra Bắc, phụ trách Đoàn ca múa Nhân dân Trung ương (nay là Nhà hát Ca múa nhạc Dân tộc Việt Nam), ông đã soạn nhạc cho nhiều tác phẩm múa như "Chim gâu", "Tấm Cám", "Múa ô", "Chàm Rông"... lại cùng Ngọc Phan viết độc tấu Violoncelle "Quê hương"... Nhưng ngạc nhiên nhất là ông đã chuyển được bút pháp lãng mạn từ thời tiền chiến đến một cung bậc cao hơn da diết và thuần khiết hơn ở "Bài ca trên đỉnh núi" - một ca khúc viết trong nhạc phim "Vợ chồng A Phủ". Nếu nói về tình ca của Nguyễn Văn Thương, cho chọn 2 tác phẩm, chắc chắn sẽ là "Đêm đông" và "Bài ca trên đỉnh núi".

Nếu Đỗ Nhuận là nhạc sĩ tiền chiến duy nhất được cử đi tu nghiệp âm nhạc ở Châu Âu để viết ra những vở Opéra Việt Nam, thì Nguyễn Văn Thương cũng là nhạc sĩ tiền chiến duy nhất được cử đi tu nghiệp âm nhạc ở Châu Âu để viết ra những tác phẩm giao hưởng Việt Nam. Thơ giao hưởng "Đồng khởi" của ông đã từng trình diễn lần đầu tại Leipzig (Đức) 1971. Hành trình âm nhạc của Nguyễn Văn Thương là hành trình đi từ ca khúc đến giao hưởng, từ dân tộc đến hiện tại bằng tâm hồn Việt. Đấy là hành trình từ khả năng đến học thuật.

Không chỉ sáng tác, Nguyễn Văn Thương còn đóng góp không nhỏ trong sự nghiệp đào tạo âm nhạc Việt . Thời kỳ làm Giám đốc Nhạc viện Hà Nội, ông đã đưa hệ trung cấp âm nhạc cổ truyền lên hệ đại học. Nhiều nghệ sĩ như Tôn Nữ Nguyệt Minh... đặc biệt là Đặng Thái Sơn từ Nhạc viện Hà Nội đi ra thế giới trong thời kỳ đương nhiệm của ông. Sự nghiệp âm nhạc lớn của Nguyễn Văn Thương đã đưa ông tới Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt 2) thật xứng đáng.

Trong số 14 nhạc sĩ được Giải thưởng Hồ Chí Minh, có lẽ ông là người duy nhất mang danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân. Nguyễn Văn Thương đã từ trần hồi 8h30' ngày 5.12.2002. Sớm ấy "Sài Gòn, hình như "thời gian như ngừng trong tê tái" để chứng kiến sự ra đi của một cây đại thụ làng nhạc. Bất chợt có cảm giác như cả con đường "Đồng khởi" bỗng âm vang thơ giao hưởng "Đồng khởi" của ông, toả sâu vào từng ngõ kiệt, từng tâm hồn.

           N.T.K
       (167/01-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LÊ QUANG THÁIXem chừng cái cổng gỗ vừa bình dị vừa cổ kính ở đường Nguyễn Công Trứ có tiền thân là đường Chợ Cống, trong khoảng hơn 100 năm trở lại, lần lượt thay đổi địa chỉ theo một loạt mã số 21, 27, 29, 31, 33, 47, 63... như đã nói lên tiếng lòng của dân gian trước tốc độ phát triển nhanh chóng của đô thị Huế.

  • VÕ QUÊLTS: Hoạ sĩ Dương Đình Sang, sinh năm 1950 tại Huế, nguyên giảng viên Đại Học Nghệ thuật Huế, hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam, hội viên Hội Liên Hiệp VHNT TT.Huế, mất ngày 18 tháng 10 năm 2005.Dù trái tim hoạ sĩ đã ngừng đập nhưng tình yêu và khát vọng Cái Đẹp vẫn còn sáng mãi trong sự nghiệp sáng tạo của ông.

  • LTS: Nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương, sinh năm 1949 tại Huế, hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, mất ngày 21 tháng 10 năm 2005. Bài viết sau đây của Hạnh Lê sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương.

  • BÙI MINH ĐỨC...Vua Minh Mạng (1791-1841) lúc sinh thời đã có đến 43 bà phi tần nhưng người vợ đầu tiên của vua là bà Hồ Thị Hoa (1791-1807). Bà nầy là một người hiếu đức hiền thục và cũng là con của một công thần nên Bà đã được Vua Gia Long và Thuận Thiên Hoàng Hậu tuyển chọn đưa vào cung Tiềm để hầu hạ cho Hoàng tử con mình...

  • TRẦN HOÀNGThật là thú vị khi được đọc bài “Như thế nào thì được gọi là người Huế?” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê (Sông Hương số 187 tháng 9/2004) và bài “Người Huế, anh là ai?” của nhà giáo – dịch giả Bửu Ý (Sông Hương số 188 tháng 10/2004). Hai anh Nguyễn Khắc Phê, Bửu Ý, người quê xứ Nghệ, người gốc xứ Huế, trong bài viết của mình, dù cách viết, cách kiến giải có khác nhau, nhưng đều tập trung bàn luận, “xác định tính cách Huế, đặc tính người Huế”.

  • DUY PHITriều Nguyễn có nhiều nhà thơ lớn. Có một tác giả thơ xuất sắc thời ấy, song trên một trăm năm qua còn ít người biết đến, đó là Hoàng Văn Hoè (1848-?).Ông hiệu Cổ Lâm, quê gốc làng Phù Lưu, Tiên Sơn, Bắc Ninh, vốn thông minh từ nhỏ, bảy tuổi đã đọc Hán thư, có tài thơ văn, ông đỗ tiến sĩ năm Tự Đức thứ 33 (1880), năm sau lại đậu khoa Yêm bác - chuyên về văn chương. Ông làm quan đến Thị độc, sau ra làm tri phủ Kiến Xương, Thái Bình.Cuộc đời của Hoàng Văn Hoè là một bài ca đầy bi tráng.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTố Hữu không những là một nhà thơ mà còn là một lãnh tụ chính trị được cán bộ và chiến sĩ rất trọng vọng. Nhiều lúc tôi có cảm giác trong tình cảm cán bộ: sau Bác Hồ là đến “Anh Tố Hữu”. Nghe thơ không những người ta tìm cái hay của thơ mà còn tìm ý kiến chỉ đạo cách mạng của ông Tố Hữu trong thơ nữa.

  • NGUYỄN TỐNGNguyễn Khoa Điềm khẳng định chân lí bằng một trực cảm thiên tài để lí giải một cách cụ thể sinh động về sự khởi nguyên và phát triển của đất nước qua hình tượng miếng trầu, cây tre. Những hình tượng bình thường quen thuộc trong đời sống của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm phát biểu, cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó ngớ ra bao điều thú vị...

  • NGÔ KHAPháo đài Láng đi vào lịch sử kháng chiến của thủ đô Hà Nội và của dân tộc ta như một sự tích anh hùng. Khai hỏa loạt đạn đầu tiên bắn vào thành Hà Nội, mở màn cuộc kháng chiến toàn quốc chống xâm lược.

  • LÂM QUANG MINHSau bao nhiêu sự kiện và bộn bề công việc cuốn hút anh em Thanh niên tiền tuyến chúng tôi trong những ngày lịch sử sôi sục khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Thừa Thiên - Huế, có một câu chuyện mà suốt 60 năm qua tôi chưa có dịp nào chia sẻ và kể lại cho anh em bè bạn nghe. Đó là cuộc gặp gỡ tình cờ và câu chuyện trao đổi ngắn ngủi giữa hai công dân - một bên là tôi, một bên là công dân Vĩnh Thuỵ - ngay sau ngày lễ thoái vị ngôi vua hôm trước.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân kỷ niệm 140 năm sinh cụ Phan Bội Châu 26/12/1867-26/12/2007)                            1. Sau phiên toà đại hình mở tại Hà Nội ngày 23/11/1925 kết án khổ sai chung thân cụ Phan Bội Châu, trước sức ép của dư luận trong nước và quốc tế, toàn quyền Pháp Varenne buộc phải ra lệnh “ân xá” và đưa Cụ về “an trí” tại Huế.

  • TRƯƠNG THỊ CÚC * Như cá lội tung tăng trong nước, không hề biết mình bơi bằng cách nào, đôi lúc người Huế cũng sống hồn nhiên, không cảm nhận một cách rạch ròi về tính cách Huế, về yếu tính của một vùng đất mà mình đã sinh ra, lớn lên và một đời gắn bó máu thịt.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGLTS: Tháng Mười, tháng kỷ niệm 72 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20.10.1930 – 20.10.2002), Sông Hương giới thiệu với bạn đọc một khuôn mặt phụ nữ Huế nổi danh từ đầu thế kỷ XX, người từng được cụ Phan Bội Châu cho lập miếu thờ và gọi là Ấu Triệu.

  • BỬU NAMBửu Chỉ là một cái tên không xa lạ với những ai ở miền Nam trước 1975. Anh là người hầu như duy nhất vẽ tranh về đề tài chiến tranh và hoà bình.Tên tuổi và tranh bằng bút sắt, mực đen của anh đã sóng đôi cùng với những ca khúc phản chiến và khát vọng hoà bình của cố nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn - một người con yêu của xứ Huế đã làm rạng rỡ vùng đất đã sinh ra mình.

  • TÔN NỮ HỶ KHƯƠNG(Trích tham luận trong Hội thảo kỷ niệm 120 năm ngày sinh Ưng Bình Thúc Giạ Thị tổ chức tại Huế)

  • TRỊNH CÔNG SƠNTrong những năm chiến tranh ác liệt nhất ở miền Nam, nếu ở địa hạt âm nhạc tôi viết những ca khúc phản chiến và khát vọng hòa bình thì ở phía hội họa, họa sĩ Bửu Chỉ gần như là người duy nhất vẽ rất nhiều về đề tài chiến tranh và hòa bình. Anh nổi tiếng vào thời ấy với những tranh nhỏ trên giấy vẽ bằng bút sắt với mực đen. Tranh anh được in trên các tạp chí nước ngoài và gây được một dư luận rộng rãi.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Để ghi nhận những công lao to lớn của văn nghệ sĩ trong sự nghiệp xây dựng nền văn học nghệ thuật Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã dành nhiều giải thưởng cao quý tặng cho những công trình văn học - nghệ thuật xuất sắc của nhiều thế hệ cầm bút: Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước.

  • THANH THẢOThơ Nguyễn Khoa Điềm say mê trong điềm tĩnh, khi nói những điều cao lớn, thơ ấy vẫn biết cúi nhìn những vật thấp nhỏ, những điều bình thường.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrước Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân cách Việt Nam ưu tú và vĩ đại của thế kỷ XX. Bài này thử nêu lên một vài khía cạnh của nhân cách đó.

  • LTS: Nhân lễ một trăm ngày mất của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Toà soạn nhận được bài viết của Cư sĩ Lê Quang Thái, giáo viên trường Trung cấp Phật học Thừa Thiên Huế - cung cấp thêm nhiều tư liệu quí về Trịnh Công Sơn và gia đình, theo “Phổ hệ” Qui y Tam Bảo tại chùa Phổ Quang - Huế, nhằm giúp độc giả hiểu thêm về quãng đời niên thiếu của nhạc sĩ tài hoa - người con thân yêu của xứ Huế đã viên thành...Sông Hương trân trọng giới thiệu và xem đây như một nén hương lòng gửi tới hương hồn Nhạc sĩ.