So sánh các dị bản truyện "Thầy bói sờ voi" và tâm thức dân tộc

09:52 05/02/2009
TRẦN ĐÌNH SỬNgười mù đều rất đôngTranh nhau nói sự thậtVoi vốn chỉ một thânThị phi lại bất đồng…

nguồn: www.wordfocus.com

* Trước hết hãy đọc ba dị bản truyện sau đây. Truyện cổ dân gian Ấn Độ (Nxb. KHXH, H.1982) kể như sau:

CON VOI VÀ BỐN NGƯỜI MÙ

Bốn người mù đi dò dẫm trên đường. Từ phía trước, một con voi đang tiến lại.
- Kìa hãy tránh cho voi đi! Khách qua đường thét bốn anh mù.
Bị tính tò mò kích thích, họ hỏi :
- Thế con voi nó như thế nào? Cho chúng tôi xem với?
Khách qua đường bèn xin ông quản tượng dừng voi lại. Ông quản tượng đồng ý dừng voi lại và bốn người mù lần đến sờ voi. Người thứ nhất sờ được cái vòi, người thứ hai sờ cái chân, người thứ ba sờ cái bụng và người thứ tư túm được cái đuôi. Sờ xong ông quản tượng liền đánh voi đi. Khách qua đường hỏi bốn người mù:
- Thế nào? Bây giờ các anh đã biết được hình dáng con voi rồi chứ?
- Vâng, bây giờ thì chúng tôi biết rồi.
- Thế nó ra làm sao?
Người mù sờ được vòi nói:
- Nó giống như như con rắn to cuộn tròn lại.
Người mù sờ cái chân nói:
- Không phải, anh nhầm rồi. Nó giống như cái cột nhà chứ!
Người mù sờ cái bụng nói:
- Hai anh nhầm. Con voi giống như thùng chứa nước.
Người mù sờ đuôi nói:
- Các anh điều nói sai bét. Nó giống sợi dây tam cố dùng để buộc thuyền.
Thế là bốn người mù đều bị nhầm lại ba hoa với nhau.
Tuy vậy mỗi người trong bọn họ đã nói được một phần sự thực: ai biết ngần nào thì nói ngần ấy.
(sđd, tr.337-338).

* Trong Kinh Niết BànKinh Trường A Hàm lại kể như sau:

NGƯỜI MÙ SỜ VOI

Ngày xưa có một ông vua sai đại thần dắt đến một con voi cho một bọn người mù sờ xem. Sau đó vua hỏi: "Các ông đã biết voi chưa?"
- Biết rồi! Bọn người mù đáp.
- Thế voi như thế nào?
- Voi xem ra như cái đòn xóc. Người sờ ngà voi bảo.
- Voi như cái quạt. Người sờ tai nói.
- Voi như tảng đá. Người sờ đầu voi đáp.
Người sờ vòi lại bảo: "Voi giống như cái chày".
- Voi giống như cái hộp gỗ. Người sờ mắt voi nói.
- Không phải. Voi như cái giường. Người sờ lưng voi khẳng định.
- Theo tôi con voi như cái thùng to. Người sờ bụng voi kêu lên.
- Đừng cãi nhau nữa, con voi như sợi dây thừng. Người sờ đuôi xác nhận.
Nhà vua nghe bọn mù tranh cãi nhau, cảm khái nói:
            Người mù đều rất đông
            Tranh nhau nói sự thật
            Voi vốn chỉ một thân
            Thị phi lại bất đồng
              (
Trích theo Hồng Phi Mạc"Cầm hoa mỉm cười", BK.1999 tr.30, tiếng Trung)

* Truyện ngụ ngôn Việt Nam do Trương Chính kể lại có khác:

THẦY BÓI SỜ VOI

Nhân buổi ế hàng, năm ông thầy bói nói chuyện với nhau. Thầy nào cũng phàn nàn không biết hình thù con voi nó như thế nào. Chợt nghe người ta nói có voi đi qua, năm thầy chung nhau tiền biếu người quản voi, xin cho voi dừng lại để cùng xem. Thầy thì sờ voi, thầy thì sờ ngà, thầy thì sờ tai, thầy thì sờ chân, thầy thì sờ đuôi.
Đoạn, năm thầy ngồi bàn tán với nhau
Thầy sờ vòi bảo:
- Tưởng con voi nó thế nào, hoá ra nó sun sun như con đỉa.
Thầy sờ ngà bảo:
- Không phải! Nó dài dài như cái đòn càn.
Thầy sờ tai bảo:
- Đâu có! Nó bè bè như cái quạt thóc.
Thầy sờ chân cãi:
- Ai bảo? Nó sừng sững như cái cột đình.
Thầy sờ đuôi lại nói:
- Các thầy nói sai cả. Chính nó tua tủa như cái chổi xể cùn.
Năm thầy, thầy nào cũng cho mình nói đúng, không ai chịu ai, thành ra xô xát, đánh nhau tọac đầu chảy máu.
 (Theo Trương Chính: Bình Giải ngụ ngôn Việt Nam, Nxb. Giáo dục, 1998)


Qua ba dị bản trên, cốt truyện hầu như giống nhau, nhưng khác nhau về mấy điểm sau:
1. Hai dị bản Ấn Độ đều gọi là "người mù"còn riêng Việt đổi thành "thầy bói".
2. Cách cảm nhận các bộ phận của con voi khác nhau, do tập quán và tâm lý dân tộc khác nhau. Ví dụ ở Ấn Độ, Trung Quốc, người ta cảm nhận cái cái đuôi voi như sợi thừng, còn người Việt Nam cảm nhận như cái chổi xể cùn, cái vòi như con đỉa, chân như cột đình, tai như cái quạt thóc v.v...
3. Người khách qua đường và ông quản tượng Ấn Độ có vẻ tốt bụng dừng voi cho người mù sờ xem, mà không đòi tiền, còn bọn thầy bói và quản tượng trong dị bản Việt thì phải có tiền mới xong!

4.
Truyện Ấn Độ không có ý châm chọc, mạt sách người mù, tuy họ nói không đúng, nhưng cũng thừa nhận họ nói được một phần sự thật: ai biết ngần nào thì nói ngần ấy. Đó cũng là một triết lý nhân sinh. Truyện kinh Phật lại sâu thêm ở tính triết lý Phật giáo. Voi vốn là một thể, nhưng sắc tướng khác nhau, nên cảm nhận khác nhau. Người mù ở đây là tượng trưng cho chúng sinh, những kẻ nhìn thế giới theo "lục pháp" (sắc, thụ, tưởng, hành, thức, thần), cho nên chỉ có" vọng tưởng", hiểu lầm. Nếu chỉ chấp lục pháp thì không hiểu được chân như, phật tính. Nhà vua ở đây chỉ cảm khái cho chúng sinh, nhưng không giễu họ. Truyện ngụ ngôn Việt là một truyện châm biếm, một thể loại khác, có thể nói không giống với thể loại ngụ ngôn. Người mù biến thành "thầy bói ế hàng", toàn truyện giễu cợt một loại người làm nghề thấy bói, thầy bói là mù, không có ý nghĩa tượng trưng về chúng sinh và con người nói chung. Đã mù, phải làm nghề thầy bói vốn không ra gì, mà lại còn "không ai chịu ai", đến nỗi "xô xát, đánh nhau toạc đầu chảy máu" vì những chuyện không đâu! Thái độ khinh bỉ bọn thầy bói mù, chủ quan của truyện người Việt; là mạnh nhất, ít bao dung nhất.

5.
Qua so sánh ba dị bản trên, hai dị bản dân gian Ấn Độ và kinh Phật, người kể là người hiểu chúng sinh, có quan niệm nhân loại, họ nhìn thấy trong người mù có bản thân họ, cho nên truyện kể nhẹ nhàng mà thâm trầm, hàm ý triết lý, không nhằm đả kích người mù. Dị bản Việt người kể tự đứng ngoài, tự coi mình là kẻ đứng cao hơn loại người khác, thu hẹp nội dung vào việc đả kích một bọn người thầy bói tầm thường. Do vậy nội dung triết lý sâu hơn.

6.
Rõ ràng truyện Ấn Độ và truyện trong Kinh Phật là có trước, dị bản Việt có sau. Sự thu hẹp nội hàm triết lý trong dị bản này phải chăng cho thấy dị bản Việt Nam không mấy quan tâm nội dung triết lý, mà thích thú với cảm hứng thế sự, đứng bên ngoài mà chế giễu một lớp người cụ thể khác mình trong xã hội, như đã từng chế giễu thầy bói, thầy tu, thầy cúng, thầy địa lý, thầy đồ... Phải chăng chỉ qua một sự so sánh nhỏ này cũng thấy được phần nào sự thiếu hụt một tầm triết lý sâu xa trong dị bản dân gian Việt?  Nhưng dị bản Việt lại có một cái đặc thù riêng. Nó biến câu chuyện sờ voi thành một bi hài kịch của những kẻ dốt nát. Những chúng sinh mù loà ấy lại tự tin, tự phụ đến mức không ai chịu ai, xô xát đánh nhau toạc đầu chảy máu! Đó là chi tiết độc đáo có lẽ chỉ ở Việt mới có. Tôi đồ rằng, những kẻ mù đâu có khả năng nhìn thấy đối tượng? Cho nên cuộc xô xát không chỉ đánh lẫn nhau, có khi còn đấm vào cột nhà, lao đầu vào gốc cây, hòn đá bên đường cũng nên; và khi đánh nhau, bạ đâu đánh đó, đâu chỉ có chuyện toạc đầu, có khi đánh vào bụng, vào bộ hạ nữa. Tóm lại là một cuộc bi hài!

7.
Tôi cứ nghĩ, tại sao chỉ do nhận thức khác nhau mà ở Ấn Độ người ta chỉ "ba hoa" với nhau, ở trong kinh Phật chỉ cãi nhau rồi thôi, đến Việt thì lại chuyển thành xô xát đánh nhau?! Phải chăng tâm thức dân gian Việt chưa tưởng tượng ra được một kết cục tốt đẹp hơn, triết lý hơn cho những bất đồng vặt trong cuộc sống? 
                    T.Đ.S

(nguồn: TCSH số 191 - 01 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRIỀU NGUYÊN  Từ ngữ cùng nghĩa là những từ ngữ gần nhau về ý nghĩa, nhưng khác nhau về âm thanh. Có ba kiểu cùng nghĩa trong tiếng Việt, là cùng nghĩa giữa từ ngữ thuần Việt (TV) với từ ngữ thuần Việt, cùng nghĩa giữa từ ngữ thuần Việt với từ ngữ Hán Việt (HV), và cùng nghĩa giữa từ ngữ Hán Việt với từ ngữ Hán Việt. Câu đối chơi chữ theo cách cùng nghĩa, có hai hình thức: tạo các từ ngữ cùng nghĩa xuất hiện trên cùng một văn bản ngắn; và cách cùng nghĩa có kết hợp với các hình thức chơi chữ khác.

  • PHAN TRỌNG HOÀCó thể khảo sát nghĩa của tục ngữ từ góc độ văn bản hoặc góc độ ứng dụng. Ở nước ta, việc nghiên cứu nghĩa của tục ngữ trong quá trình sử dụng không phải là một vấn đề mới mẻ, nhưng so với xu hướng này thì việc nghiên cứu nghĩa của tục ngữ ở trạng thái ổn định trên văn bản đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Thật khó khẳng định rằng trong hai cách xem xét trên thì cách nào là quan trọng hơn, vì nó không chỉ phụ thuộc vào đặc trưng thể loại của đối tượng được nghiên cứu mà nhiều khi còn tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu của từng loại đề tài và nói chung là tuỳ thuộc vào nhu cầu của hoạt động thực tiễn. Điều đáng lưu tâm là ở chỗ, khi mình đã lựa chọn hướng tiếp cận này thì đừng vì thế mà phủ nhận hướng tiếp cận kia.

  • TRẦN ANH PHƯƠNGĐi chơi gặp vịt cũng lùagặp duyên cũng kết gặp chùa cũng tu                                                (Ca dao)

  • VIỆT CHUNGTrong 12 con giáp, con dê (Mùi còn gọi là Vị) là con vật đứng vào hàng thứ 8, trước khỉ và sau ngựa. Dê tên chữ là Dương.Dê vốn là con vật miền núi, được thuần hoá nên có thể nuôi trong nhà. Hình ảnh con dê gây được những ấn tượng với người đời một cách khó quên. Đặc biệt của loài dê là dê đực hoặc dê cái đều có râu và có sừng, bản chất hiền lành và tràn đầy sinh lực.

  • TRIỀU NGUYÊNHiện tượng cùng âm xảy ra khi cùng một tổ hợp âm thanh nhưng có nhiều ý nghĩa khác nhau tương ứng, trong cùng một ngữ cảnh. Câu đối chơi chữ theo cách cùng âm có thể chia làm hai loại: lặp nhiều từ ngữ cùng âm trên cùng một văn bản ngắn; dùng một tổ hợp để biểu thị hai từ ngữ cùng âm; đồng thời, dạng cùng âm có yếu tố tên riêng cũng được xét như một loại đặc biệt.

  • PHẠM THỊ ANH NGATheo quan niệm thông thường, phép lịch sự bao giờ cũng có tính ưu đãi đối với tha nhân: dành cho kẻ khác một tầm quan trọng và thái độ trân trọng hơn là đối với chính bản thân. Nhưng cũng tuỳ từng nền văn hoá, mà giữa hai bên tương tác có sự cân bằng tương đối về vai vế hay không. C. Kerbrat-Orecchioni phân biệt: (1) Những xã hội ở đó quyền lợi giữa hai bên giao tiếp tương đối ngang nhau; (2) Những xã hội xem đối tượng tương tác (A: allocutaire) có được nhiều quyền ưu tiên hơn bản thân người tương tác (L : locuteur).

  • TRIỀU NGUYÊN1. Câu tục ngữ "Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại" được sách Kho tàng tục ngữ người Việt (Nguyễn Xuân Kính (chủ biên), Nguyễn Thuý Loan, Phan Lan Hương, Nguyễn Luân; Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2002) (KT), tr 75, ghi lại, trên cơ sở 12 đầu sách có chép nó.

  • NGUYỄN ĐỨC TĂNGCũng như ca dao, những câu hò trong dân gian thuộc loại văn chương bình dân nên rất phổ cập trong dân chúng. Tác giả của nó có thể là những nhà thơ dân gian, thường không lưu lại tên tuổi như những nhà thơ của văn học thành văn, nhưng cũng đóng góp đời mình vào sự phát triển của ngôn ngữ thơ ca trong lãnh vực văn chương bình dân.

  • TÔ VĨNH HÀNhỏ nhất như con chuột và kiêu dũng nhất như con rồng, mười hai con giáp trong lịch can - chi vẫn mãi thôi thúc lẽ nghĩ suy của muôn vạn kiếp đời trong cái nghiệp tận hằng của sự hiểu và cả “sự” làm người.

  • TRIỀU NGUYÊNI. Khái quátXem xét cách sử dụng hình ảnh của một thể loại văn học là yêu cầu cần có khi tiếp cận thể loại ấy. Tình hình nghiên cứu thể loại câu đố có nhiều hạn chế so với các thể loại khác của văn học dân gian, trong đó, có vấn đề hình ảnh.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGCho đến nay, đã có các công trình sưu tầm và biên soạn truyện cổ Tà Ôi khá đầy đặn về văn bản. Qua các công trình nầy chúng ta thấy rằng người Tà Ôi sinh sống trên dãy Trường Sơn, quần cư chủ yếu trên địa bàn hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế đang lưu giữ một kho tàng tri thức phong phú về văn học dân gian mà trong đó thể loại An xoar (chuyện cổ tích) là một thí dụ điển hình.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGNgười Tà Ôi ở Việt Nam thật sự đã có một kho tàng văn học dân gian rất phong phú với các thể loại: Ca dao (Pracăm), câu đố (Pralau), truyện cổ dân gian (Axoar), tục ngữ và dân ca.

  • TRIỀU NGUYÊN           Chùm Truyện ngụ ngôn

  • HẢI TRUNGVào thời Hán, ở Trung Quốc, có một vị tướng tên là Đậu Thao, do phạm trọng tội nên bị vua Hán đày biệt xứ ra biên ải. Vợ của tướng quân này là Tô Huệ là một phụ nữ bình dân sống bằng nghề dệt lụa. Từ ngày Đậu Thao bị đày ra biên ải, ngày đêm vò võ ngóng tin chồng, nhưng ngày tháng cứ nối nhau qua mãi mà vẫn biệt âm vô tín.

  • TRIỀU NGUYÊN 1.Trong cấu tạo nhan đề của thơ văn Hán Nôm, ở dạng danh ngữ, có hai hình thức thường gặp: danh từ trung tâm biểu thị thể loại (như: Hịch tướng sĩ văn - Trần Quốc Tuấn, Ngọc tỉnh liên phú - Mạc Đỉnh Chi, Thượng kinh kí sự - Lê Hữu Trác, Hoàng Lê nhất thống chí - Ngô Gia văn phái, Hạ Châu tạp thi - Cao Bá Quát,...).