Vậy, tại sao chỉ với sáu câu nhạc mà bài ca lại có sức lôi cuốn, lan tỏa mạnh mẽ đến như vậy? Không chỉ tồn tại trên sân khấu, trên truyền thông đại chúng, mạng xã hội mà trong cuộc sống thường nhật hàng ngày như: đám cưới, đám hỏi, liên hoan, sinh nhật, thậm chí là của đông đảo người lao động chân tay khi chiều về vừa lai rai vừa gõ chén, gõ đũa hát vang lên những giai điệu mộc mạc, bình dị, gần gũi với âm hưởng dân gian và thấm đẫm tình người ấy. Ngày nay, những câu hát trong ca khúc này trở thành câu hát “cửa miệng” của nhiều người dân nơi con sông Bồ chảy qua và của những người yêu âm nhạc xứ Huế.
Để làm nên được những điều bình dị nhưng lớn lao, khiêm tốn nhưng thanh cao đó, theo chúng tôi trước hết xuất phát từ sự chân thành, biết ơn mảnh đất, dòng sông quê hương đã sinh thành, nuôi dưỡng, vun đắp tâm hồn anh, tiếp đến là sự quan sát tinh tế về con người và cảnh vật thiên nhiên, và trên hết là tài năng “thiên phú” khi cảm xúc dâng trào đến tột cùng trong khoảnh khắc “vô thức” của sự sáng tạo đã làm nên bài ca diệu huyền đến vậy. Từ câu mở đầu bài ca với bước nhảy đi xuống quãng 4, đi lên quãng 7 như vừa là câu hỏi, vừa là sự miêu tả vẻ đẹp của dòng sông với sự góp mặt các quãng 4 đ, 5 đ, 2 T, 3t, nơi góp phần tạo dựng nên “thần thái” của tâm hồn dân ca xứ sở.
Vẫn mạch nguồn cảm xúc chân thực, chân thành và không quá lời với những mỹ từ, anh miêu tả những hình ảnh có thật trên quê hương mình qua tháng ngày bom đạn, chiến tranh nhưng “chưng cất” lên thành hình tượng văn học rất đắt, rất thực: “Rào kẽm gai giăng vào làn nước lạnh/ dòng sông Bồ vẫn trong xanh”, sự tương phản giữa cứng và mềm, giữa nóng và lạnh, giữa nhu và cương… làm bật lên sự tàn bạo của kẻ thù và sức mạnh nội tại vô địch của “nước”, tượng trưng cho ý chí và sức mạnh lòng dân trước mọi biến cố, thăng trầm của lịch sử.
Xúc động trước bài hát của lòng dân sông Bồ, ông Phan Trung, nguyên Bí thư Huyện ủy Hương Trà, trong một chương trình phỏng vấn của Đài Truyền hình Việt Nam năm 1998, đã từng nhận xét: “…Sông Hương có nhiều bài hát gắn với Huế và mang tính toàn quốc, còn sông Bồ gắn với dáng dấp một vùng quê, sát với nhu cầu và tình cảm của người dân, bài hát [có một dòng sông] rất quyến luyến, nặng tình, tôi tin rằng bài hát sẽ còn vang xa mãi và con người, mảnh đất quê hương sông Bồ ngày mai sẽ giàu đẹp hơn trên con đường đổi mới”.
Bằng sự vận dụng âm hưởng dân ca một cách tinh tế, nhất là thủ pháp luyến láy làm cho tuyến giai điệu (melody) uyển chuyển, mềm mại như điệu chảy của dòng sông nhịp nhàng trong từng câu hát, để rồi cứ vỗ về nên điệu dân ca, cứ bên lở, bên bồi, bên nhớ, bên thương, cứ day dứt, khắc khoải mãi khôn nguôi với tình đất, tình người xứ sở, nơi tuổi thơ tắm gội, nơi nuôi dưỡng tâm hồn khát khao như cánh diều no gió. Nơi cánh đồng xanh bên lũy tre làng, nơi lời ru nặng tình của mẹ, bên củ kiệu, củ nưa tần tảo của cha gom nhặt nuôi ta khôn lớn từng ngày… Có lẽ từ những cảm nhận đó mà bài hát luôn luôn mới, vẹn nguyên, tinh khôi trong lòng người thưởng thức. Một vẻ đẹp khác của ca khúc này là khi giải quyết cao trào đi vào đoạn kết, tác giả với thẩm mỹ tinh tế của mình đã khéo léo vận dụng phương pháp chuyển điệu cùng tên từ la thứ qua la trưởng (Amoll - Adur) một cách nhẹ nhàng, logic, cùng với tiếng gọi thao thiết tên dòng sông quê hương da diết, mênh mông như không bao giờ vơi cạn trong dòng chảy cảm xúc của người nghe: “Sông Bồ ơi sông Bồ/ xa mấy cũng chẳng quên/ sông Bồ ơi sông Bồ/ ta hát lời mải mê”, bằng thủ pháp điệp từ và nhắc lại giai điệu có chủ ý, tác giả làm cho đứa con tinh thần của mình vừa khiêm tốn nhưng da diết, quyến luyến, ám ảnh mãi trong ý thức người nghe.
Khi đương thời, nhạc sĩ Trần Hữu Pháp, nguyên Chủ tịch Hội Âm nhạc Thừa Thiên Huế từng nhận xét về ca khúc này như sau: “Dòng sông Bồ chan chứa bao kỷ niệm của một thời tuổi thơ đến lúc trưởng thành của tác giả. Bài hát để lại cho người nghe nhiều niềm xao xuyến; với khúc thức hoàn chỉnh, âm nhạc dịu dàng, sâu lắng, mỗi khi nghe ta thấy càng yêu quê hương nhiều hơn…”. Đúng như vậy, vẻ đẹp của ca khúc này không chỉ nằm ở phần văn học trong ca từ, mà còn có sự đóng góp rất quan trọng của đặc điểm âm nhạc. Khi xướng âm thật kỹ bài hát chúng ta dễ dàng nhận thấy chủ đề và hình tượng âm nhạc rất rõ nét, đó là điệu chảy của dòng sông Bồ lúc mạnh, lúc nhẹ, lúc thì thầm, lúc dào dạt như từng lớp sóng xô theo mạch nguồn cảm xúc được thể hiện bằng đường nét giai điệu trải dài theo hình lượn sóng. Đặc biệt là sự tiết kiệm chất liệu âm nhạc bằng các thủ pháp nhắc lại, mô phỏng, phát triển, kết hợp với các quãng luyến láy trong dân ca, làm cho bài hát vừa chặt chẽ về kết cấu, vừa logic trong hòa âm, đó là cách sử dụng điệu thức cùng tên nhưng luôn thay đổi bằng thủ pháp ly điệu, chuyển điệu từ la thứ tự nhiên sang la thứ hòa thanh, la thứ giai điệu, la trưởng tự nhiên rồi quay lại giọng chủ la thứ, làm cho ca khúc vừa dễ hát, dễ phổ cập nhưng không dễ dãi. Cái tài tình của tác giả trong ca khúc này là sự vận dụng âm hưởng dân ca (hơi thở, tiết tấu và quãng của vè Huế, ca Huế) nhưng không đậm nét, lạm dụng, mà chỉ vận dụng để phát triển, làm cho bài hát nghe thân quen, gần gũi nhưng luôn luôn mới trong sự nhận cảm và thẩm thấu của người thưởng thức.
Với sáu câu nhạc, được bố cục ở hình thức ba đoạn phát triển (A - B - A’), ca khúc “Có một dòng sông” của NGND - GS.TS.BS. - nhạc sĩ Trần Hữu Dàng là một ca khúc đẹp, lạ và hay nhất về dòng sông Bồ hơn 40 năm qua mà tôi từng biết. Thậm chí trên mạng xã hội có thính giả Bùi Hoàng Linh vì quá yêu ca khúc này mà tự đi tìm nguồn gốc của dòng sông Bồ. Chúng tôi xin trích nguyên văn như sau: “Con sông thật đẹp như câu hát của bác sĩ Trần Hữu Dàng: Đi từ Trường Sơn về Tam Giang mênh mông sóng nước/ có tự bao giờ ơi con sông Bồ/ bên lở, bên bồi, bên nhớ, bên thương”; bắt nguồn từ vùng núi A Sầu của dãy Trường Sơn thuộc xã A Roàng, huyện A Lưới. Theo sử sách tên của con sông này được đặt theo tên các vùng đất mà nó chảy qua, đầu tiên (thế kỷ XV) là Đan Điền, sau đó là Phú Ốc, Hiền Sĩ, Cổ Bi. Tuy nhiên trong dân gian sông được gọi là sông Bồ. Theo tài liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn cho rằng vì ở thượng nguồn của con sông này mọc nhiều cây Bồ (còn gọi là cây Lác) nguyên liệu để dệt chiếu, nên tên sông được gọi là sông Bồ”.
Suốt cuộc đời chữa bệnh cứu người bằng Y học và Âm nhạc, cho đến nay nhạc sĩ Trần Hữu Dàng đã có hàng trăm ca khúc dưới nhiều thể tài khác nhau, song ca khúc “Có một dòng sông” vẫn là một dấu son trên hành trình âm nhạc của anh, bởi nó hội tụ nhiều yếu tố tạo nên sự hoàn hảo trong tác phẩm này như: cách vận dụng âm hưởng dân ca, yếu tố văn học, yếu tố mỹ thuật, thủ pháp sáng tác âm nhạc, đặc biệt là cách chọn cấu tứ và xây dựng hình tượng chủ đề rất gợi và ấn tượng. Có thể nói, nhạc sĩ Trần Hữu Dàng đã đi ra từ trong linh khí đất trời xứ sở, tắm mình trong dòng sông dân ca, dân nhạc của miền quê yêu dấu, mảnh đất đã vun vén, nuôi dưỡng chắp cánh tâm hồn anh bay lên trong sự thăng hoa cảm xúc bằng những nốt nhạc, âm điệu, lời ca dạt dào và cháy bỏng, giàu tính nhân văn đến thế trong “Có một dòng sông”. Dòng sông của đời người, dòng sông của tình yêu, dòng sông của mùa xuân sẽ còn ngân vang mãi trong lòng nhiều thế hệ người yêu âm nhạc xứ Huế, và sức sống của bài ca mãi còn lan tỏa, đâm chồi, nảy lộc mạnh mẽ như sức trẻ mùa xuân.
N.V.Đ
(TCSH432/02-2024)
VÔNG VANGCó thể nói cùng với chiều dài lịch sử của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân, không thể và không khi nào mà khi nói đến nơi đây người ta lại không nhắc đến Thơ. Bởi vì ngoài “nhiệm vụ” là một bức thông điệp giúp cho ta biết hơn về lịch sử, về con người, Thơ còn giúp ta hiểu hơn về chính nó, về một ký ức lãng đãng đang trôi qua từ thẳm sâu trong trí nhớ, trong cái thăng hoa luân chuyển của vũ trụ và của chính con người.
TRẦN THÙY MAI(Đọc “Thơ của người cô độc” tập thơ của Tường Phong, NXB Thuận Hóa xuất bản)
TRẦN HỮU LỤCChân dung Huế (*) - tập bút ký nhân vật, là một trong 12 đầu sách liên kết giữa Tủ sách Nhớ Huế với NXB Trẻ.
BÍCH PHƯỢNG thực hiệnLTS: Trong dịp vào Huế thực hiện một số phim trong chương trình “Người của công chúng” (Đài Truyền hình Việt Nam), nhà báo Bích Phượng đã có dịp tìm hiểu tác phẩm, gặp gỡ trò chuyện với nhà văn Nguyễn Khắc Phê tại ngôi nhà vuờn xinh đẹp của ông trên đường Xuân Diệu. Ông đã trả lời một cách cởi mở và thẳng thắn những vấn đề đặt ra.
NGUYỄN PHÚC VĨNH BATrong cuốn “Hồ sơ văn hoá Mỹ”, nhà nghiên cứu Hữu Ngọc có giới thiệu một số nhà thơ cổ điển Mỹ như Walt Whitman, Edgar A. Poe, Henri W. Longfellow… Về Longfellow, ông Hữu Ngọc viết:“Nếu không đòi hỏi tâm lí và tư duy sâu sắc thì có thể tìm ở thơ Longfellow sự trong sáng, giản dị, cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, hình ảnh duyên dáng và âm điệu du dương. Ông làm thơ về lịch sử và truyền thuyết, đất nước và thiên nhiên, ông ca ngợi tình thương, lòng tốt, chịu đựng cuộc đời.
LÊ HUỲNH LÂMTừ “Vọng sông quê” đến “Mang” của Nhà xuất bản Trẻ, rồi “Gửi thiên thần” của Nhà xuất bản CAND và bây giờ là “Đồng hồ một kim” của Nhà xuất bản Văn Học” được gửi đến bạn đọc, Phan Trung Thành đã khẳng định được gương mặt thơ của thế hệ 7.X. Ở đây, số lượng tác phẩm không định hình nên một gương mặt thơ, mà chính những câu chữ đã vẽ lên chân dung một nhà thơ.
TIỂU VĂNGiữa tháng 11 năm 2008, tôi được dự một buổi hội thảo nói chuyện chuyên đề về sách tại Zen Café (phố Ngọc Hà). Đây là buổi nói chuyện của tác giả - dịch giả Lê Thị Hiệu, với bút danh thường gọi là Hiệu Constant, giới thiệu về tác phẩm đầu tay của chị - tiểu thuyết Côn trùng. Buổi nói chuyện nằm trong chương trình “Tôn vinh Văn hóa Đọc” do Công ty Truyền thông Hà Thế khởi xướng và tổ chức.
HÀ KHÁNH LINHHồng Nhu truyện ngắn, Hồng Nhu thơ… Lần đầu tiên nhìn thấy Hồng Nhu xuất hiện tiểu thuyết tôi thực lòng rất mừng. Tuy nhiên đọc gần hết hai chương đầu nỗi lo cứ cồm cộm lên trong tâm thức nhưng chính gần cuối chương II cái chất tiểu thuyết mới bắt đầu hé lộ ra, để rồi từ đó lôi cuốn người đọc cho đến hết truyện.
LÊ QUANG TƯCông trình Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (những vấn đề lý luận và lịch sử)(1) được biên soạn bởi Trần Ngọc Vương (chủ biên), Trần Nho Thìn, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh..., do nhà xuất bản Giáo dục in năm 2007, dày 912 trang.
LÝ HOÀI XUÂN(Nhân đọc tập thơ “Mẹ!” của Văn Lợi – NXB Thuận Hoá, 2006)
TRẦN HUYỀN SÂMNhư con thú hoang ôm vết thương lòng đi tìm nơi trú ẩn, gương mặt người thiếu phụ mang nỗi buồn tiền kiếp - tự ngàn xưa: Người thiếu phụ có đôi mắt buồnĐi lang thang trong chiều mùa hạNỗi cô đơn lây sang cả đá...
MAI VĂN HOANNgười đời thì lập ngôn còn Nhụy Nguyên thì “lập thiền”. Thú thực tôi chưa hiểu hết dụng ý của Nhụy Nguyên khi đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Lập thiền. Bản thân từ Hán Việt vốn ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.
BỬU NAMI. Văn học Mêhicô ở thế kỷ XX, có lẽ được xem như một nền văn học năng động và sáng tạo nhất Châu Mỹ La tinh. Táo bạo trong những tìm tòi mới, linh hoạt uyển chuyển trong cách diễn tả, đa dạng phong phú trong cách sử dụng các cấp độ ngôn ngữ, sáng suốt trong cách chọn lựa đề tài, hình thức, ngôn ngữ: tiểu thuyết và truyện ngắn ở Mêhicô tạo được những không gian sáng tạo và đổi mới một cách tự do.
NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.
NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.
NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.
PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.
BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.
BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)