HỒNG NHU
(Đọc Vùng sâu - tiểu thuyết của Tô Nhuận Vỹ - Nxb Hội Nhà văn 1-2012)
Trong chiến tranh, vùng sâu chỉ về những nơi dân gần địch nhất, chúng kềm cặp gắt gao nhất, phòng bị dày đặc nhất, nghĩa là cách mạng khó khăn nhất trong việc thâm nhập gian khổ ác liệt nhất trong hoạt động. Nhiều người gọi nơi đây là vùng lõm, vùng tử địa...
Không ít nhà văn đã lấy bối cảnh nơi đây cho ra đòi những tác phẩm của mình, những truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết trong những năm qua được độc giả đánh giá là có sức nặng, có vóc tầm. Đa phần các tác phẩm nói trên miêu tả những trận “xáp lá cà” khốc liệt giữa địch và ta, những thảm cảnh đớn đau mà quân dân ta đã chịu đựng đã trải qua, những tình huống, câu chuyện có một không hai, nói cách khác là những kỳ tích, kỳ công của nhân dân ta trong cuộc chiến.
Nhà văn Tô Nhuận Vỹ - một nhà tiểu thuyết dày kinh nghiệm - cũng đi vào vùng sâu nhưng theo một hướng khác, hướng mà anh đã chọn lựa, theo tôi là khá độc đáo, khá đắc địa.
Xung quanh cốt truyện nghi ngờ, hiểu nhầm và giải tỏa, gỡ rối những nghi ngờ đó ở các chiến sĩ cách mạng trung kiên của ta vào thời điểm cuối cuộc chiến tranh đầu những năm sau giải phóng với Phước, sinh viên phong trào đấu tranh sau này là Tiểu đoàn trưởng Thanh niên xung phong đi khai hoang, người đạp xe xích lô kiêm nhà nghiên cứu văn hóa sử; Thảo nữ đội phó đội biệt động sau này là người phụ trách tổ bảo vệ cầu rồi Phó Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ thành phố; Hoài cán bộ miền Bắc vào sau Hiệp định Paris được ký kết, sau này là thiếu tá công an; Nghĩa (tức Hắn) một cán bộ quan trọng của tỉnh chỉ đạo hướng chiến dịch, Phó Bí thư Tỉnh ủy; rồi Larry cố vấn Mỹ trẻ tuổi nhất trong đám cố vấn lực lượng cảnh sát thành phố, sau này là Giáo sư văn chương, Trưởng phái đoàn cựu chiến binh Mỹ đến Việt Nam tìm hiểu tình hình nạn nhân chiến tranh... Tô Nhuận Vỹ đã miêu tả sự đấu tranh không bằng súng đạn nhưng cũng quyết liệt, dằng dai, đầy gian khó của con người để tự hoàn thiện mình “Cuộc đời dù có gập gềnh, nắng mưa thất thường, nhưng mình luôn là một con người phải luôn sống cho tốt, cái đích ấy trọn vẹn do nơi mình quyết định, cái đích ấy có ai cướp đi được của mình đâu mà buồn nản? Đó không chỉ là mục đích mà là nguồn sống là hạnh phúc nữa”.
Đã là con người, dĩ nhiên có lúc thế này lúc thế nọ, ai cũng có thể có những sai lầm thiếu sót nhất định, song “không thể dựa vào sai lầm của người khác, thậm chí là sai lầm của một tổ chức để làm nguyên nhân cho sai lầm của mình”.
Phía nhân vật phản diện thì duy nhất chỉ có Nghĩa Phó Bí thư Tỉnh ủy là trước sau như một, vẫn đẹp trai, một cái đẹp rất đàn ông, to khỏe, rắn rỏi, vẫn lươn lẹo, cơ hội, vì riêng mình mà chà đạp lên mọi người, hãm hại họ không ngưng nghỉ cho tới lúc “chết”. “Bao giờ ông mới thôi cái thói sống ác với con người”. Lời Thảo như một tiếng sét đánh thẳng vào đầu Hắn. Nghĩa vẫn sống nhưng thực chất là đã chết. Đó là lúc bé Nhân (con của Hắn nhưng Hắn đã đổ cho Hoài) “Chủ tọa phiên tòa” xử Hắn với ánh mắt thiên thần của bé:
- Mẹ con nói Ba con hay đi đêm, lần đó bên mình tưởng là địch nên bắn chết!
“Những viên đạn của bên mình”. Đó là những Thảo, Hoài, Phước,... những người trung kiên chân chính, “không khi mô tính chi cho mình hết, chỉ nhận việc khó và thiệt thòi, may mắn thì nhường cho bạn hè đồng chí”.
Tự sâu trong lòng Nghĩa cũng biết mình là một thằng đàn ông tệ hại, nhưng lại bằng lòng với những ứng xử của mình để đảm bảo an toàn chính trị một trăm phần trăm cho bản thân với cái đích đến là ngoi lên Bí thư Tỉnh ủy, Ủy viên Trung ương Đảng. Ngòi bút Tô Nhuận Vỹ vạch trần cái xấu của một cán bộ cao cấp của ta không e dè, đạt đến độ chân thực, sâu xa.
Và Larry, một người Mỹ có lương tâm sau khi từ Việt Nam về đã thấy rõ thực chất cuộc chiến tranh của Mỹ, đã không ít dằn vặt với hành động của mình chuẩn bị cho âm mưu hậu chiến sau này của Mỹ. Sau bao nhiêu lần e ngại lãng tránh, cuối cùng Larry cũng trở lại Việt Nam để làm rõ mọi chuyện, minh oan cho Phước, người mà Larry cho là một anh hùng, bất chấp cả sau vụ này Larry phải đối mặt với tòa án ở nước của anh...
Tô Nhuận Vỹ đã chọn cho mình một hướng đi khó. Vùng sâu trong địa lý, trong chiến tranh thì nhà văn nào cũng có thể miêu tả được nhưng vùng sâu trong lòng người thì chưa chắc. Với thủ pháp đan cài quá khứ và hiện tại cũng như thấp thoáng cả tương lai, Vỹ đã làm phong phú sự kiện, hành động bên ngoài và nội tâm bên trong, làm giảm sự nhàm chán của tuần tự có tính biên niên của câu chuyện kể, tăng phần tối đa sự hấp dẫn đối với người đọc.
Rõ ràng anh đã công phá thai nghén ấp ủ, lao động văn chương cật lực mới có được. Mặt khác, anh đã rất súc tích trong sản phẩm, thích hợp với mong muốn của số đông người đọc hiện nay. Với dung lượng vấn đề bao la, tư tưởng rộng lớn như Vùng sâu, phải già dặn thì mới gói được trong 3 trăm trang sách (cụ thể là 334 trang); non tay một chút, phải gấp đôi như vậy - tôi nghĩ.
Nói gì thì nói song tiểu thuyết không thể không nói đến tính cách của các nhân vật mà ta thường gọi là chính hay phụ. Trong Vùng sâu, tôi thấy có thể là Phước, Thảo, Hoài mà cũng có thể là “Hắn”, Nghĩa. Nghĩ xô bồ như vậy nhưng vỡ ra cái kỹ thuật nghề nghiệp của nhà văn Tô Nhuận Vỹ. Anh đã không nhợt nhạt bất cứ nhân vật nào. Lòng yêu quý nhân vật, tôn trọng người đọc của tác giả nổi rõ nhờ động tác này.
Phước, anh chàng đạp xích lô độc thân, nhà nghiên cứu viết sách văn hóa sử, vì mục kích quá nhiều “trò xiếc” trong thiên hạ đối với mình nên “luôn luôn sẵn sàng hiểu nhầm những người thương quý mình”. Tuy nhiên sự sẵn sàng của anh được chính anh tự vấn, lật lại cũng luôn luôn. Điều đó dường như đánh động cả người đọc cũng tự vấn theo...
Thảo, cô gái mà chỉ mới đọc lướt vài dòng trong sơ yếu lý lịch đã thấy ớn: “biệt động thời chống Mỹ, hai huân chương chiến công, bị tù ở Phú Quốc được thả về sau hiệp định Paris, hai lần được kết nạp Đảng, một lần bị khai trừ, 35 tuổi không có chồng nhưng có một đứa con gái, cháu Nhân nay đã 14 tuổi...” Bị Nghĩa cưỡng hiếp trong một đêm nằm hầm rồi có thai. Khác với các cô gái khác hoảng sợ, Thảo rất bình tâm. Cô chỉ điên cuồng ghê tởm trước sự lừa lọc của người cán bộ Tỉnh ủy cấp trên. Thảo buộc phải suy tính đến những điều đơn giản của đời sống người đàn bà trước tình cảnh ấy: Người cha của đứa con mình; mặc dầu lúc này và mãi sau, cô vẫn một lòng yêu Hoài.
Tiếc thay, cho đến cùng Nghĩa vẫn lừa đảo lọc lõi, tính toan xảo trá, xiên xẹo cho đến khi ông ta gặp bé Nhân ở Hà Nội.
“... - Bác có thế hỏi con một câu được không?
- Bác cứ tự nhiên.
- Mẹ có hay kể về ba con cho con nghe không?
- Khi nào con hỏi thì mẹ kể.
- Ghi tên ba con trong học bạ là chi?
- Là Nghĩa. Như tên Bác vậy. Bác tên là Nghĩa phải không ạ?
Hắn bật đứng dậy, đột ngột choáng váng, suýt khuỵu xuống mặt đường...”
Chỉ từng ấy thôi, người đọc đã thấy tính cách ba người cùng bật ra một lúc: hai mẹ con Thảo và ông Phó Bí thư Tỉnh ủy.
Đọc Vùng sâu tôi còn thấy ở tác giả toát ra một tình yêu Hà Nội nồng đượm sâu thẳm. Nhân vật Trinh, một cô gái trẻ, là mẫu người đẹp toàn diện, trắng trong như tên của cô. Trinh dấn thân vào việc gỡ nỗi oan cho Phước bằng nguyên tắc mà cô tôn thờ “Người tốt phải được bảo vệ” đến nỗi đã làm sai nguyên tắc một số việc, vì Ăn-Ghen đã có nói: “Trong một số trường hợp nào đó “vô nguyên tắc là nguyên tắc mới” “Trinh bất chấp thân gái dặm trường, dám đến một đất nước xa lạ gặp một người xa lạ để thuyết phục anh ta... Trinh làm việc gì cũng muốn đi tới cùng, không bao giờ bỏ cuộc (lời Larry).
Hai nhân vật người Hà Nội trong Vùng sâu đều cùng một lứa, cùng một tâm hồn tươi trẻ và năng động, và cũng đẹp như chính Hà Nội! Tô Nhuận Vỹ bấy giờ cũng cùng lứa tuổi ấy, anh đã sống và học ở Hà Nội nhiều năm và từ Hà Nội ra đi, trở về miền Nam chiến đấu công tác...
Nói tóm lại, nhà văn Tô Nhuận Vỹ bằng kinh nghiệm và tài năng của mình đã vẽ nên những nhát cọ sâu sắc, có hồn. Viết đến đây, tôi bỗng nhớ tới một nhân vật mấy chục năm trước của anh trong tiểu thuyết Phía ấy là chân trời: Cô Thư nói với người yêu của mình là Vĩnh, một sĩ quan Ngụy không chịu ra đầu thú, trình diện, chỉ sống chui sống lủi chống phá ta: “Tại sao anh không thể là người tốt được hả anh?”. Câu hỏi đó cứ vang lên trong tôi - một người đọc - mãi đến tận bây giờ.
Vùng sâu, một tiểu thuyết hay. Tô Nhuận Vỹ đã thành công, rất thành công. Chúc mừng anh và đợi chờ cuốn tiếp theo mà anh cho biết là viết về số phận con người trong sự kiện Xuân Mậu Thân ở Huế.
H.N
(SH281/7-12)
NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.
NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.
NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.
PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.
BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.
BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)
PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.
BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.
NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)
LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.
THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.
HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...
BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.
NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.
HỒ THẾ HÀ Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.
TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.
TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.