Sâu địa lý sâu cả lòng người

09:21 20/07/2012

HỒNG NHU

(Đọc Vùng sâu - tiểu thuyết của Tô Nhuận Vỹ - Nxb Hội Nhà văn 1-2012)

Trong chiến tranh, vùng sâu chỉ về những nơi dân gần địch nhất, chúng kềm cặp gắt gao nhất, phòng bị dày đặc nhất, nghĩa là cách mạng khó khăn nhất trong việc thâm nhập gian khổ ác liệt nhất trong hoạt động. Nhiều người gọi nơi đây là vùng lõm, vùng tử địa...

Không ít nhà văn đã lấy bối cảnh nơi đây cho ra đòi những tác phẩm của mình, những truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết trong những năm qua được độc giả đánh giá là có sức nặng, có vóc tầm. Đa phần các tác phẩm nói trên miêu tả những trận “xáp lá cà” khốc liệt giữa địch và ta, những thảm cảnh đớn đau mà quân dân ta đã chịu đựng đã trải qua, những tình huống, câu chuyện có một không hai, nói cách khác là những kỳ tích, kỳ công của nhân dân ta trong cuộc chiến.

Nhà văn Tô Nhuận Vỹ - một nhà tiểu thuyết dày kinh nghiệm - cũng đi vào vùng sâu nhưng theo một hướng khác, hướng mà anh đã chọn lựa, theo tôi là khá độc đáo, khá đắc địa.

Xung quanh cốt truyện nghi ngờ, hiểu nhầm và giải tỏa, gỡ rối những nghi ngờ đó ở các chiến sĩ cách mạng trung kiên của ta vào thời điểm cuối cuộc chiến tranh đầu những năm sau giải phóng với Phước, sinh viên phong trào đấu tranh sau này là Tiểu đoàn trưởng Thanh niên xung phong đi khai hoang, người đạp xe xích lô kiêm nhà nghiên cứu văn hóa sử; Thảo nữ đội phó đội biệt động sau này là người phụ trách tổ bảo vệ cầu rồi Phó Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ thành phố; Hoài cán bộ miền Bắc vào sau Hiệp định Paris được ký kết, sau này là thiếu tá công an; Nghĩa (tức Hắn) một cán bộ quan trọng của tỉnh chỉ đạo hướng chiến dịch, Phó Bí thư Tỉnh ủy; rồi Larry cố vấn Mỹ trẻ tuổi nhất trong đám cố vấn lực lượng cảnh sát thành phố, sau này là Giáo sư văn chương, Trưởng phái đoàn cựu chiến binh Mỹ đến Việt Nam tìm hiểu tình hình nạn nhân chiến tranh... Tô Nhuận Vỹ đã miêu tả sự đấu tranh không bằng súng đạn nhưng cũng quyết liệt, dằng dai, đầy gian khó của con người để tự hoàn thiện mình “Cuộc đời dù có gập gềnh, nắng mưa thất thường, nhưng mình luôn là một con người phải luôn sống cho tốt, cái đích ấy trọn vẹn do nơi mình quyết định, cái đích ấy có ai cướp đi được của mình đâu mà buồn nản? Đó không chỉ là mục đích mà là nguồn sống là hạnh phúc nữa”.

Đã là con người, dĩ nhiên có lúc thế này lúc thế nọ, ai cũng có thể có những sai lầm thiếu sót nhất định, song
“không thể dựa vào sai lầm của người khác, thậm chí là sai lầm của một tổ chức để làm nguyên nhân cho sai lầm của mình”.

Phía nhân vật phản diện thì duy nhất chỉ có Nghĩa Phó Bí thư Tỉnh ủy là trước sau như một, vẫn đẹp trai, một cái đẹp rất đàn ông, to khỏe, rắn rỏi, vẫn lươn lẹo, cơ hội, vì riêng mình mà chà đạp lên mọi người, hãm hại họ không ngưng nghỉ cho tới lúc “chết”. “Bao giờ ông mới thôi cái thói sống ác với con người”. Lời Thảo như một tiếng sét đánh thẳng vào đầu Hắn. Nghĩa vẫn sống nhưng thực chất là đã chết. Đó là lúc bé Nhân (con của Hắn nhưng Hắn đã đổ cho Hoài) “Chủ tọa phiên tòa” xử Hắn với ánh mắt thiên thần của bé:

- Mẹ con nói Ba con hay đi đêm, lần đó bên mình tưởng là địch nên bắn chết!

“Những viên đạn của bên mình”. Đó là những Thảo, Hoài, Phước,... những người trung kiên chân chính, “không khi mô tính chi cho mình hết, chỉ nhận việc khó và thiệt thòi, may mắn thì nhường cho bạn hè đồng chí”.

Tự sâu trong lòng Nghĩa cũng biết mình là một thằng đàn ông tệ hại, nhưng lại bằng lòng với những ứng xử của mình để đảm bảo an toàn chính trị một trăm phần trăm cho bản thân với cái đích đến là ngoi lên Bí thư Tỉnh ủy, Ủy viên Trung ương Đảng. Ngòi bút Tô Nhuận Vỹ vạch trần cái xấu của một cán bộ cao cấp của ta không e dè, đạt đến độ chân thực, sâu xa.

Và Larry, một người Mỹ có lương tâm sau khi từ Việt Nam về đã thấy rõ thực chất cuộc chiến tranh của Mỹ, đã không ít dằn vặt với hành động của mình chuẩn bị cho âm mưu hậu chiến sau này của Mỹ. Sau bao nhiêu lần e ngại lãng tránh, cuối cùng Larry cũng trở lại Việt Nam để làm rõ mọi chuyện, minh oan cho Phước, người mà Larry cho là một anh hùng, bất chấp cả sau vụ này Larry phải đối mặt với tòa án ở nước của anh...

Tô Nhuận Vỹ đã chọn cho mình một hướng đi khó. Vùng sâu trong địa lý, trong chiến tranh thì nhà văn nào cũng có thể miêu tả được nhưng vùng sâu trong lòng người thì chưa chắc. Với thủ pháp đan cài quá khứ và hiện tại cũng như thấp thoáng cả tương lai, Vỹ đã làm phong phú sự kiện, hành động bên ngoài và nội tâm bên trong, làm giảm sự nhàm chán của tuần tự có tính biên niên của câu chuyện kể, tăng phần tối đa sự hấp dẫn đối với người đọc.

Rõ ràng anh đã công phá thai nghén ấp ủ, lao động văn chương cật lực mới có được. Mặt khác, anh đã rất súc tích trong sản phẩm, thích hợp với mong muốn của số đông người đọc hiện nay. Với dung lượng vấn đề bao la, tư tưởng rộng lớn như Vùng sâu, phải già dặn thì mới gói được trong 3 trăm trang sách (cụ thể là 334 trang); non tay một chút, phải gấp đôi như vậy - tôi nghĩ.

Nói gì thì nói song tiểu thuyết không thể không nói đến tính cách của các nhân vật mà ta thường gọi là chính hay phụ. Trong Vùng sâu, tôi thấy có thể là Phước, Thảo, Hoài mà cũng có thể là “Hắn”, Nghĩa. Nghĩ xô bồ như vậy nhưng vỡ ra cái kỹ thuật nghề nghiệp của nhà văn Tô Nhuận Vỹ. Anh đã không nhợt nhạt bất cứ nhân vật nào. Lòng yêu quý nhân vật, tôn trọng người đọc của tác giả nổi rõ nhờ động tác này.

Phước, anh chàng đạp xích lô độc thân, nhà nghiên cứu viết sách văn hóa sử, vì mục kích quá nhiều “trò xiếc” trong thiên hạ đối với mình nên “luôn luôn sẵn sàng hiểu nhầm những người thương quý mình”. Tuy nhiên sự sẵn sàng của anh được chính anh tự vấn, lật lại cũng luôn luôn. Điều đó dường như đánh động cả người đọc cũng tự vấn theo...

Thảo, cô gái mà chỉ mới đọc lướt vài dòng trong sơ yếu lý lịch đã thấy ớn: “biệt động thời chống Mỹ, hai huân chương chiến công, bị tù ở Phú Quốc được thả về sau hiệp định Paris, hai lần được kết nạp Đảng, một lần bị khai trừ, 35 tuổi không có chồng nhưng có một đứa con gái, cháu Nhân nay đã 14 tuổi...” Bị Nghĩa cưỡng hiếp trong một đêm nằm hầm rồi có thai. Khác với các cô gái khác hoảng sợ, Thảo rất bình tâm. Cô chỉ điên cuồng ghê tởm trước sự lừa lọc của người cán bộ Tỉnh ủy cấp trên. Thảo buộc phải suy tính đến những điều đơn giản của đời sống người đàn bà trước tình cảnh ấy: Người cha của đứa con mình; mặc dầu lúc này và mãi sau, cô vẫn một lòng yêu Hoài.

Tiếc thay, cho đến cùng Nghĩa vẫn lừa đảo lọc lõi, tính toan xảo trá, xiên xẹo cho đến khi ông ta gặp bé Nhân ở Hà Nội.

“... - Bác có thế hỏi con một câu được không?

- Bác cứ tự nhiên.

- Mẹ có hay kể về ba con cho con nghe không?

- Khi nào con hỏi thì mẹ kể.

- Ghi tên ba con trong học bạ là chi?

- Là Nghĩa. Như tên Bác vậy. Bác tên là Nghĩa phải không ạ?

Hắn bật đứng dậy, đột ngột choáng váng, suýt khuỵu xuống mặt đường...”

Chỉ từng ấy thôi, người đọc đã thấy tính cách ba người cùng bật ra một lúc: hai mẹ con Thảo và ông Phó Bí thư Tỉnh ủy.

Đọc Vùng sâu tôi còn thấy ở tác giả toát ra một tình yêu Hà Nội nồng đượm sâu thẳm. Nhân vật Trinh, một cô gái trẻ, là mẫu người đẹp toàn diện, trắng trong như tên của cô. Trinh dấn thân vào việc gỡ nỗi oan cho Phước bằng nguyên tắc mà cô tôn thờNgười tốt phải được bảo vệ” đến nỗi đã làm sai nguyên tắc một số việc, vì Ăn-Ghen đã có nói: “Trong một số trường hợp nào đó “vô nguyên tắc là nguyên tắc mới” “Trinh bất chấp thân gái dặm trường, dám đến một đất nước xa lạ gặp một người xa lạ để thuyết phục anh ta... Trinh làm việc gì cũng muốn đi tới cùng, không bao giờ bỏ cuộc (lời Larry).

Hai nhân vật người Hà Nội trong Vùng sâu đều cùng một lứa, cùng một tâm hồn tươi trẻ và năng động, và cũng đẹp như chính Hà Nội! Tô Nhuận Vỹ bấy giờ cũng cùng lứa tuổi ấy, anh đã sống và học ở Hà Nội nhiều năm và từ Hà Nội ra đi, trở về miền Nam chiến đấu công tác...

Nói tóm lại, nhà văn Tô Nhuận Vỹ bằng kinh nghiệm và tài năng của mình đã vẽ nên những nhát cọ sâu sắc, có hồn. Viết đến đây, tôi bỗng nhớ tới một nhân vật mấy chục năm trước của anh trong tiểu thuyết Phía ấy là chân trời: Cô Thư nói với người yêu của mình là Vĩnh, một sĩ quan Ngụy không chịu ra đầu thú, trình diện, chỉ sống chui sống lủi chống phá ta: “Tại sao anh không thể là người tốt được hả anh?”. Câu hỏi đó cứ vang lên trong tôi - một người đọc - mãi đến tận bây giờ.

Vùng sâu, một tiểu thuyết hay. Tô Nhuận Vỹ đã thành công, rất thành công. Chúc mừng anh và đợi chờ cuốn tiếp theo mà anh cho biết là viết về số phận con người trong sự kiện Xuân Mậu Thân ở Huế.

H.N
(SH281/7-12)
 








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.