Săn kỳ lân - Khám phá thêm một điều bí ẩn trong tác phẩm của Shakespeare

15:11 21/02/2020

ANĐRÂY GOCBUNỐP (Tiến sĩ ngôn ngữ học Liên Xô)

Gần đây đã có những khám phá rất có ý nghĩa ở Washington và London, trong những cuốn sách đã yên nghỉ trên các kệ sách thư viện trong cả bốn thế kỷ nay.

Ảnh: internet

Trong nhiều năm trời, các chuyên gia đã tranh cãi về những bài Sonnet của Shakespeare, nhưng nhà thơ lớn này lại có một tác phẩm còn bí ẩn hơn nữa, "Phượng hoàng và Chim Gáy", một bài thơ than vãn về cái chết của một đôi tình nhân thuộc dòng thế phiệt trâm anh. Những người viết tiểu sử của Shakespeare theo truyền thống vẫn tin rằng bài thơ ra đời vào năm 1601, đó là ngày tháng ghi ở trang đề tựa trong tuyển tập của Robert Chester, là tập thơ đăng bài thơ ấy lần đầu tiên. Ba bản còn lại hiện ở Thư viện Folger Shakespeare (Washington) ghi năm 1601, bản ở Thư viện Huntington (Mỹ) lại mất trang ghi tựa đề và ngày tháng xuất bản, và bản ở thư viện Nhà bảo tàng Anh, đề năm xuất bản là năm 1611.

Cái chết của những ai đã được Shakespeare than vãn và những người đồng thời với ông trong tuyển tập thơ của Sir Robert Chester gán cho cái danh hiệu là "Kẻ tử vì tình ái" ? Tại sao cuốn sách lại không được dư luận quần chúng chú ý ? Cuốn sách ấy đã không hề đăng ký theo như luật lệ ngày ấy, cũng chẳng được đề cập ở một tài liệu nào cả. Đến thế kỷ thứ mười chín R.W.Emerson đã đề nghị Học viện Quốc gia Mỹ trao một giải thưởng đặc biệt cho người nào tìm ra được điều bí ẩn của bài thơ.

Trong 100 năm qua nhiều giả thuyết đã được đặt ra, nhưng chẳng một ai tìm ra một cách giải quyết ổn thỏa.

Một chuyên gia Xô Viết viết về Shakespeare, Giáo sư Ilya Ghililốp, đã nghiên cứu tất cả mọi nguồn tài liệu có liên quan đến điều bí ẩn và đi đến một kết luận rằng bài thơ không thể nào ra mắt trước năm 1611; Năm 1601 là một điều hoàn toàn bí ẩn. Điều này giúp thêm cứ liệu để tìm ra rằng Phượng hoàng và chim Gáy là biểu trưng của Bá tước Rutland và bà vợ ông là Elizabeth. Một vài học giả của thế kỷ 20 lại cho rằng bá tước Rutland là tác giả thực sự của tất cả những tác phẩm của Shakespeare.

Sau những công bố về những tìm tòi của Ilya Ghililốp đăng trên báo Moscow News vào tháng 3/1988 (đã được dịch và đăng lại trên Tạp chí Sông Hương số Xuân 1989(*)), một người ở nhà xuất bản Shakespeare Neusletter (Mỹ) là Louis-Marder đã lấy làm thích thú với giả thuyết này. Để minh chứng cho điều đó, Ilya Ghililốp đã đề nghị các học giả Mỹ so sánh những sự khác biệt ở những cuốn sách của Chester lưu trữ ở Washington và London.


Những đồng nghiệp phương tây chẳng phải vội vàng chi để thực hiện điều này - hầu như tháng nào cũng có những giả thuyết mới về Shakespeare. Vào cuối năm 1989, nhà dịch thuật Liên Xô, bà Marina Litvinốpva, trong thời gian viếng thăm Hoa Kỳ, đã đến thư viện Folger Shakespeare gần điện Capitol ở Washington và yêu cầu được xem cuốn sách cổ. Đưa những trang sách ấy ra dưới ánh sáng, Litvinốpva trông thấy một dấu in kỳ lạ : Một con lân với hai chân sau quỳ xuống. Cùng với người bảo quản sách quí hiếm Laetitia Yeandle, bà xem lại những cuốn sách tham khảo và thấy rằng dấu in ấy rất độc đáo, chẳng có trong một cuốn sách nào cả. Sự bí ẩn đã được lần ra khi bản in giữ ở Washington được đem ra so sánh với bản in giữ được ở Luân Đôn. Sau đó những người giữ thư viện ở Washington đã tìm thấy một dấu in khác, một chiếc mũ cổ trong cuốn sách của họ, và gửi những bản sao của cả hai cuốn sách ấy đến cho ủy ban Shakespeare thuộc Hội đồng văn hóa thế giới, Viện khoa học nhà nước Liên Xô.

Khi các học giả Xô Viết đến Luân Đôn, họ đã tìm thấy con lân chân quỳ giống như vậy trên những trang sách trong tuyển tập của Chester ở Thư viện Nhà bảo tàng Anh Quốc.

Không còn nghi ngờ gì nữa về cái điều rằng cả hai bản in của cuốn sách đăng những bài thơ của Shakespeare đã được cùng một tay thợ nhà in làm ra và trên cùng một trang in, hiển nhiên là vào năm 1611. Ngày tháng ra đời của bài thơ như thế là đã bị thay đổi cả mười năm, một sự kiện hiếm thấy trong lịch sử nghiên cứu về Shakespeare.

Con kỳ lân còn có thể giúp thêm một điều hữu ích cho các nhà nghiên cứu tiểu sử trên thế giới. Bằng cách đối chiếu "Phượng hoàng và chim Gáy" với những cuốn sách khác xuất bản trong năm 1612-1613, cuối cùng điều thắc mắc của những người hâm mộ Shakespeare đã được hé lộ. Trong lúc đó những khám phá khác có thể sẽ làm kinh ngạc những kẻ cho rằng mình đã hiểu tất cả về Shakespeare.

H.H. dịch
(Báo Moscow News 2/91).
(TCSH47/01&2-1992)

---------------------
(*) Xem thêm:

http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c329/n19733/Dieu-bi-an-ve-Chim-Phuong-hoang-cua-Shakespeare.html

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VALENTIN HUSSON    

    Trước hết, ta phải hướng sự chú ý đến động từ “cách ly” khi mà với tư cách là một ngoại động từ, nó có nghĩa là sự vứt bỏ ra khỏi một giới hạn; trong khi với tư cách là một nội động từ, nó hướng đến sự ràng buộc để ở lại trong một vài giới hạn nhất định. Nó vừa nói lên cả sự vứt bỏ lẫn sự rút lui; vừa hiện diện vừa vắng mặt.

  • HIỀN LÊ

    Hiroshi Sugimoto (sinh năm 1948 tại Tokyo) là nhà kiến trúc sư, nhiếp ảnh gia người Nhật.

  • Palomar là tác phẩm hư cấu cuối cùng của Italo Calvino (1923 - 1985), một trong những nhà văn lớn nhất của Ý ở thế kỉ 20, xuất bản tháng 11 năm 1983.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN  

    Nếu bình thường thì giờ nầy chúng tôi đang ở “hộp đêm” trong bụng máy bay Eva trên đường về Quê hương và đang vượt nửa sau Thái Bình Dương.

  • JEAN-CLET MARTIN   

    Trong thời điểm cách ly và tự cách ly này, thế giới tái khám phá ra chiều kích mang lại cho nó một phương hướng nhất định.

  • Slavoj Žižek, nhà triết học người Slovenia, được mệnh danh là “nhà triết học nguy hiểm nhất ở phương Tây” hiện nay. Ông nổi tiếng với tác phẩm Đối tượng trác tuyệt của ý thức hệ (The Sublime Object of Ideology, 1989), ở đó ông đã kết hợp quan niệm duy vật Marxist và phân tâm học Lacan để hướng đến một lý thuyết về ý thức hệ.

  • MARKUS GABRIEL   

    Trật tự thế giới bị lung lay. Một loại virus đang lây lan trên quy mô vô hình của vũ trụ mà ta không hề biết được những chiều kích thực sự của nó.

  • ĐỖ LAI THÚY  

    M. Bakhtin (1895 - 1975), nhà nghiên cứu văn học Nga - Xô viết có tầm ảnh hưởng bậc nhất ở Việt Nam. Ông là nhà lý luận tiểu thuyết. Người phát hiện/minh ra tiểu thuyết đa âm, tính đối thoại, nguyên tắc thời-không, tính nghịch dị và văn học carnaval hóa…

  • THÁI THU LAN

    Émile Zola là một nhà văn hiện thực lớn nhất đồng thời cũng phức tạp nhất của nước Pháp ở cuối thế kỷ thứ 19, là người sáng lập lý luận về chủ nghĩa tự nhiên, là một tấm gương lao động không mệt mỏi, là một chiến sĩ có tinh thần chiến đấu dũng cảm chống chiến tranh phi nghĩa, chống quyền lực tàn bạo và bênh vực quần chúng lao động nghèo khổ.

  • NGUYỄN TÚ ANH - TRẦN KỲ PHƯƠNG

    Trong nghệ thuật Ấn Độ cũng như nghệ thuật Chàm, hình tượng con chuột luôn mang ý nghĩa tốt đẹp, đó là con chuột nhà hay chuột nhắt (mouse), chứ không phải chuột cống.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Jen học trước tôi hai năm, đàn chị. Cô là thường trú, PGY- 4, tôi là PGY- 2. Trong nghề chúng tôi, hơn nhau một năm đã là tình thầy trò, huống gì hơn hai.

  • LƯU TÂM VŨ
                hồi ký

    LTS : Nhà văn Lưu Tâm Vũ sinh năm 1942, tốt nghiệp sư phạm Bắc Kinh năm 1961, sau đó dạy học nhiều năm ở Bắc Kinh. Truyện ngắn đầu tay Chủ nhiệm lớp đoạt giải thưởng truyện ngắn ưu tú toàn quốc 1978, được coi là tác phẩm mở đầu cho văn học thời kỳ mới.

  • Cách đây 40 năm khi nhà xuất bản Morrow and Avon chi 5 triệu đô la cho James Clavell, tác giả những cuốn tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như Hồng Kông ngày ấy, Đại tướng quân, Whirlwind, giới xuất bản ở Mỹ choáng váng. Nhưng bây giờ tiền nhuận bút đã vượt xa kỷ lục ấy.

  • ALAN BURNS      

    William Carlos Williams cũng như bất cứ người nào, đến rất gần với việc nhận thức ra lý tưởng mới của chủ nghĩa hình tượng, nhất là trong những bài thơ như “The Great Figure” và “The Red Wheelbarrow”.

  • Đây là một câu chuyện về di dân được viết theo chương trình “Dự án chiếc giày” (The Shoe Project) được khởi xướng thành lập bởi tiểu thuyết gia Katherine Govier, Toronto, Canada. Chương trình này bao gồm việc giúp các phụ nữ di dân viết một câu chuyện 600 từ về kinh nghiệm di dân của mình và lên một sân khấu nhỏ để trình diễn (đọc) câu chuyện đó trước những khán giả trong vùng. “Dự án chiếc giày” được thực hiện ở Antigonish với sự giúp đỡ của tiểu thuyết gia Anne Simpson và nhà biên kịch Laura Teasdale.

  • NHƯ QUỲNH DE PRELLE  

    Tôi đã từng mơ ước về quê nhà để đọc thơ tiếng Việt, để thổn thức cùng thi ca tiếng Việt. Thế mà, ở nơi này, giữa trái tim châu Âu và trong lòng bạn bè quốc tế, tiếng Việt của tôi ngân lên giữa những nhịp điệu, những giọng nói hoàn toàn khác. Và tôi đi đọc thơ, tự bao giờ tôi cũng tự chuyển ngữ những bài thơ của chính mình với bạn đọc ở đây. Đi đọc thơ, bao điều thú vị và những mới mẻ.

  • HÂN QUY

    (Phỏng vấn nhà báo lão thành LÉO FIGUÈRES)

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Một người bạn cũ ở Mỹ kể với tôi rằng gần mười năm nay anh không đi du lịch xa, cũng không về Việt Nam, mặc dù nhớ. Tôi hỏi lý do, anh bảo vì sợ nỗi buồn chán khi phải ngồi trên máy bay mười mấy giờ.

  • LỖ TẤN

    Nói đến đọc sách, tựa hồ đó là một việc rất rõ ràng, chỉ cầm đem sách ra đọc là được rồi. Nhưng không hề đơn giản như vậy.