Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).
Nam Cao (1915 - 1951) là một cây bút hiện thực, một nhà báo kháng chiến nổi bật của văn chương Việt thế kỷ 20. Bên cạnh những tác phẩm viết về người nông dân nghèo (Lão Hạc, Chí Phèo...), Nam Cao có những tiểu thuyết xoay quanh đề tài người trí thức. Kỷ niệm 100 năm sinh của tác giả, nhà xuất bản Kim Đồng ra mắt hai ấn bản tiểu thuyết Sống mòn và tập truyện ngắn Đôi mắt.
Được xem là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn, Sống mòn đề cập đến người trí thức trong thời đại cũ. Tác phẩm đưa ra hình tượng văn nghệ sĩ nhiều khát khao, giàu lý tưởng nhưng cuộc sống mòn dần bởi mối lo cơm áo. Nhân vật "giáo Thứ" là điển hình cho bi kịch của trí thức cách đây hơn nửa thế kỷ. Kiếp sống mòn của ông thể hiện sự day dứt của những con người không chấp nhận một cuộc đời vô nghĩa, "giấc mơ hẹp", mà luôn hướng tới cuộc sống "với đầy đủ giá trị của sự sống".
Sống mòn ban đầu có tên "Chết mòn", được tác giả viết xong năm 1944 nhưng tới năm 1956 mới được in, khi đó tác giả đã qua đời. Ấn bản Sống mòn lần này in theo bản năm 1977 của Nhà xuất bản Văn học.
![]() |
Bìa sách "Đôi mắt'. |
Tập Đôi mắt tuyển chọn những truyện ngắn, bút ký đặc sắc của Nam Cao sau cách mạng tháng Tám như Đôi mắt, Ở rừng, Trên những con đường Việt Bắc, Từ ngược về xuôi... Các tác phẩm này phản ánh đời sống hiện thực và nói lên nhân sinh quan của tác giả về đời sống, nghệ thuật, quan điểm sáng tác. Trong đó, Đôi mắt là truyện ngắn để lại nhiều dấu ấn của Nam Cao. Tác giả xây dựng hai nhân vật chính Hoàng và Độ với hai cách nhìn nhận về người nông dân, cuộc kháng chiến trái ngược nhau. Qua đó, Nam Cao khái quát vấn đề mang tính thời đại của văn nghệ sĩ - cách nhìn cuộc sống và sống hòa mình vào thời cuộc.
Theo Y Nguyên - vnexpress
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Trong thơ trữ tình, lịch sử không tồn tại. Trường ca làm chúng tồn tại.
(Ý kiến của Nguyễn Văn Bổng, Xuân Cang, Nguyễn Kiên, Hà Minh Đức, Hoàng Ngọc Hiến)
Sách chuyên khảo “Sự ra đời của đế chế Nguyễn” của A.Riabinin tiến sĩ sử học Xô Viết nghiên cứu lịch sử xã hội - chính trị của Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX.
LÊ MINH PHONG
(Nhân đọc: Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương của Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nxb. Khoa học xã hội, 2017).
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Trong sách “Nhìn lại lịch sử”, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003, tác giả Phan Duy Kha viết bài “Một bài thơ liên quan đến lăng mộ vua Quang Trung”.
BÙI KIM CHI
“Tháng Tám năm Ất Dậu (1945)… Là công dân Việt Nam nên tôi đã tham gia phong trào chống xâm lăng…”. (Truyện ngắn Mũi Tổ).
TRƯƠNG THỊ TƯỜNG THI
Thuật ngữ triết luận gắn với tính trí tuệ hay tính triết lý trong văn học nói chung và trong thơ ca nói riêng xuất hiện từ rất sớm.
NGUYỄN THẾ QUANG
Nói đến nhà văn Nguyễn Khắc Phê thì không gì bằng đọc cuốn tự tuyện của anh. Số phận không định trước(*) đưa ta đi suốt cuộc hành trình sáng tạo nghệ thuật bền bỉ quyết liệt suốt năm chục năm qua của anh.
NGUYỄN HỮU SƠN
Thiền sư Vạn Hạnh (?-1018) gốc họ Nguyễn, người hương Cổ Pháp (nay thuộc phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), thuộc thế hệ thứ mười hai dòng Thiền Nam phương Tì Ni Đa Lưu Chi.
NGUYÊN QUÂN
Một cảm nhận thật mơ hồ khi cầm trên tay tập sách, vừa tản văn vừa tiểu luận của nhà văn Triệu Từ Truyền gởi tặng. Sự mơ hồ từ một cái tựa rất mơ hồ bởi lẽ chữ là một thực thể hữu hiện và chiếc cầu tâm linh chính lại là một ảo ảnh rất dị biệt với thực thể hữu hạn của những con chữ.
TUỆ AN
Đọc “Ảo giác mù”, tập truyện ngắn của Tru Sa (Nxb. Hội Nhà văn, 2016)
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Ngô Thì Nhậm viết bài thơ Cảm hoài cách đây 223 năm, nhân đi sứ báo tang Tiên hoàng Quang Trung băng hà và cầu phong An Nam quốc vương cho vua Cảnh Thịnh.
NGUYỄN THỊ THANH LƯU
Đã từ rất lâu rồi, tôi hài lòng với việc đọc thơ trong màu xám của một nỗi tuyệt vọng - nỗi tuyệt vọng không bao giờ phân tách nổi trắng đen giữa đám sương mù xám đặc dường như chỉ có dấu hiệu đậm dần lên trong những lớp lang chữ nghĩa, trong cách ngắt nhịp, buông vần.
MAI VĂN HOAN
Lẽ ra tôi không viết bài này. Thiết nghĩ văn chương thiên biến, vạn hóa, mỗi người hiểu một cách là chuyện bình thường. Tốt nhất là nên tôn trọng cách nghĩ, cách cảm thụ của người khác.
TRIỀU NGUYÊN
1. Đặt vấn đề
Nói lái được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp thông thường, và trong văn chương (một lối giao tiếp đặc biệt). Để tiện nắm bắt vấn đề, cũng cần trình bày ở đây hai nội dung, là các hình thức nói lái ở tiếng Việt, và việc sử dụng chúng trong văn chương.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc tiểu thuyết “Huế ngày ấy” của Lê Khánh Căn, Nxb. Quân đội nhân dân, 2006).
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
(Đọc “Song Tử” của Như Quỳnh de Prelle)
VŨ TRỌNG QUANG
Trần Thiên Thị viết tắt TTT hay đọc là 3 Tê, tôi liên tưởng đến những T thơ ca:
GIÁNG VÂN
Tôi gọi chị là “ Người truyền lửa”.
LGT: Trong khi giở lại tài liệu cũ, tình cờ chuỗi thơ xuân năm Ất Dậu 2005 của Thầy Trần Văn Khê xướng họa với chị Tôn Nữ Hỷ Khương và anh Đỗ Hồng Ngọc rơi vào mắt.