Sách của sách - Bình luận về một phát minh

16:30 23/10/2009
ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

Nhà nghiên cứu văn học người Nga Alexander Genis (1953) - Ảnh: flickr.com

Khi đưa ra những thông tin trên lấy từ báo chí Mỹ, tôi muốn thử bàn về một vài phương diện của phát minh được nói đến ở đây. Cố nhiên, có thể tự an ủi rằng các nhà khoa học đã tạo ra một thứ đồ chơi điện tử không có ý nghĩa nghiêm túc. Nhưng xin nhớ cho rằng người đời cũng từng có thái độ y như vậy lúc đầu đối với điện ảnh, sau đó với phát thanh, sau nữa với truyền hình. Thế kỷ XX đã cho thấy sự tiến bộ kỹ thuật hồn nhiên xâm nhập vào các lĩnh vực thầm kín nhất của cuộc sống con người, làm thay đổi cả cách sống lẫn cách suy nghĩ của chúng ta.

Sách điện tử - đó là khâu tiếp theo trong chuỗi các thành tựu kỹ thuật biến văn minh công nghiệp thành văn minh hậu công nghiệp. Sự xuất hiện sách điện tử hoàn tất quá trình vi tính hóa văn học. Cái này đến lượt mình không thể không ảnh hưởng đến văn hóa của chúng ta, biến nó thực sự thành nền văn hóa hậu Gutenberg.

Thực chất, sách điện tử là sách của sách. Với thời gian nó sẽ thay thế các hiệu sách và thư viện - bởi lẻ trong một cuốn sách dã chứa đựng tất cả những cái còn lại. Dự án có ý đồ hoang tưởng này gợi nhớ một truyện ngắn của Borges. Nhưng về mặt kỹ thuật nó hoàn toàn thực hiện được. Và điều đó nghĩa là đã đến lúc phải xét đoán những sự thay đổi sống còn do nó gây nên. Nói cụ thể hơn, có ba vấn đề khiến tôi quan tâm - pháp lý, xuất bản và văn học.

Vấn đề cấp thiết nhất gắn với sự sở hữu trí tuệ. Để sách điện tử thực sự có hiệu quả, nó cần phải không bị lệ thuộc vào các trở ngại “copyright” (bản quyền). Điều đó có nghĩa các quyền tác giả sẽ thường xuyên bị đe dọa. Tìm sự thỏa hiệp giữa quyền lợi của tác giả và của độc giả - đó là vấn đề không chỉ phức tạp, mà tôi sợ là nó còn không giải quyết được. Đây không chỉ nói về sự ăn cắp đơn giản, dù việc dịch văn bản sang dạng số đã làm cho việc ăn cắp thành một việc kinh doanh nhẹ nhàng và không tránh khỏi. Tôi cũng không có ý nói đến chuyện đạo văn thông thường- chứng minh việc đó khá đơn giản. Cái khó là ở việc xác lập, nếu như nói chung có thể làm được việc đó, cái khung pháp lý cho quyền tác giả của tư tưởng.

Trong khi đó ở thế giới hiện đại lĩnh vực áp dụng quyền tác giả thường xuyên được mở rộng. Thử nhìn xem mục giới thiệu trong các phim Holywood được soạn kỹ đến thế nào. Nó không chỉ đề tên các nhà biên kịch trực tiếp, mà còn tên những người đưa ra ý tưởng phim, những người nghĩ ra các nhân vật chính, và những người thể hiện chúng.

Quá trình này hoàn toàn hợp qui luật. Thời chúng ta, ý tưởng, tư tưởng, quan niệm trở thành thứ hàng hóa có lợi nhất. Nhưng tai họa ở chỗ là hết sức khó xác định quyền tác giả trong lĩnh vực rất phù du của tư tưởng. Lấy tiêu phí nào để xét đoán tính độc đáo của ý đồ, sự mới mẻ của ý tưởng? Đâu là ranh giới giữa sự vay mượn có và không có chủ ý? Mà thế nào là vay mượn? E.T.Eliot có lần nói rằng các nhà văn thường thường bậc trung thì vay mượn, còn các nhà văn vĩ đại thì ăn cắp. Tôi đồ rằng đây là ông nói về Shkespeare...

Nói gọn lại, ngay không có sách điện tử thì vấn đề  sở hữu trí tuệ đã nhức nhối rồi. Nay với sự xuất hiện một thiết bị làm đơn giản đi rất nhiều việc truy cập mọi thông tin và việc trao đổi nó, thì vấn đề này càng trở thành một cơn ác mộng pháp lý. Thêm nữa lại càng tối tăm, đến mức vấn đề sở hữu trí tuệ vượt ra khỏi giới hạn pháp luật, bị đẩy vào lĩnh vực triết học.

Vấn đề là ở chỗ, mặc dù tư tưởng có thể là hàng hóa, nhưng dẫu sao đây vẫn là thứ hàng hóa đặc biệt. Thứ tốt nhất trong số những thứ do tinh thần con người tạo nên, không thuộc về ai cả. Hay - cũng thế thôi - thuộc về tất cả. Không một quyền tác giả nào bảo vệ được những câu thơ hay - mọi người đều thuộc lòng chúng. Ý nghĩa của mọi tư tưởng càng lớn, cơ hội sở hữu riêng của nó càng ít. Và những tư tưởng quan trọng nhất của thời chúng ta dường như không có quyền tác giả - chúng hòa tan vào bầu khí quyển thời đại, trở thành tài sản chung của mọi người. Về pháp lý, có thể điều này là bất hợp pháp, tuy nhiên không một tòa án nào có thể ngăn chặn được sự bóc lột trắng trợn các nỗ lực trí tuệ của người khác, sự bóc lột có tên gọi là “quay vòng tư tưởng”.

Dù bản thân tôi cũng đau khổ vì những sự sao chép ăn cắp, nhưng tôi không thể không nói: phần thưởng cao nhất cho tác giả là ở chỗ sở hữu trí tuệ của hắn được tước đoạt, được xã hội hóa. Và tôi thấy là lẽ công bằng khi các phần thưởng cao cả: tình yêu, gia đình, sáng tạo, thiên nhiên, niềm vui trí tuệ - đều không phải mất tiền.

Một vấn đề khác gắn với việc bước lên vũ đài sách điện tử - vấn đề số lượng in (tirage). Đung hơn - sự thiếu đi vấn đề đó. Không phải các nhà xuất bản, không phải các hãng văn học, không phải các ban biên tập, không phải các hội chợ sách sẽ quyết định mỗi bản thảo cần bao nhiêu độc giả. Sách điện tử nối thẳng độc giả với tác giả, xóa bỏ mọi khâu trung gian giữa họ (Tình hình này có phần gợi nhớ thực tế xuất bản ở nước ta. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên: ở Liên Xô thời đại hậu Gutenberg bắt đầu sớm hơn mọi nơi khác).

Tôi không biết ai sẽ được lợi từ sự dân chủ hóa triệt để ngành xuất bản. Có thể chỉ dám nghĩ là ở đây sẽ xuất hiện không ít chuyện sửng sốt. Các nhà văn có số lượng in nhiều triệu bản như Stiven King và Grisam (Mỹ) hay Dotsenko và Topol (Nga) sở dĩ thành công là nhờ quán tính và chiến lược thị trường. Hàng sản xuất hàng loạt bao giờ cũng dễ bán - nó có mặt trên mỗi quầy hàng. Sách điện tử có thể thay đổi tình hình đó. Nó làm cho tất cả các ấn phẩm - từ tranh khắc nguyên thủy đến sách thần bí, đều đến được với độc giả như nhau. Giống như khắp nơi hiện nay, việc thay thế nhu cầu hàng loạt bằng nhu cầu đẽo gọt đã dẫn đến sự tan rã của nền văn hóa nguyên khối. Một trăm kênh thì tốt hơn ba kênh, bởi vì truyền hình nhiều kênh không buộc phải chiều lòng tất cả, thậm chí chiều lòng nhiều người. Quá trình này, tất nhiên, là thuận lợi, bởi vì nó giúp nghệ sĩ có nơi ẩn náu tránh sức ép của đám đông.

Xóa bỏ vấn đề số lượng in bằng cách hạ giá sản xuất, rút lại ngắn nhất khoảng cách giữa tác giả và độc giả, sách điện tử mở ra một trang mới trong lịch sử ngành xuất bản. Có khả năng, nó là trang cuối cùng.

Vấn đề lý thú nhất gắn với sự xuất hiện sách điện tử là vấn đề văn học. Màn hình máy tính không thay thế trang giấy, mà vờ làm nó. Đó là sói đội lốt cừu. Chữ viết điện tử khác cơ bản chữ viết thường, hoàn cảnh đó không thể không tác động đến thứ văn học mà các nhà văn thế kỷ XXI sẽ viết, đúng hơn, sẽ tạo ra.

Xét đến cùng sách điện tử sẽ khác sách giấy không phải bằng cách tái hiện các chữ cái , mà bằng nội dung, bằng chiến lược trần thuật, bằng cấu trúc nghệ thuật. Ngay hiện nay đã có những tác phẩm quan trọng mà chỉ có thể đọc được chúng thực sự qua bản điện tử, chứ không phải qua bản trên giấy. Cố nhiên ý tôi muốn nói đến một tác giả người ta có quyền gọi là nhà văn đầu tiên của thiên niên kỷ thứ ba - nhà tiểu thuyết Serbi Milorad Pavic. Trong một bài phỏng vấn dài đăng trên tờ tạp chí Mỹ “Bình luận văn học mới”, Pavic có nói một điều rất quan trọng đối với đề tài đang bàn đến ở đây. Ông cho rằng, hiện nay đang diễn ra cuộc khủng hoảng không phải của văn học, mà của tự thân việc đọc. Loại tiểu thuyết bình thường đã ngừng làm việc, bởi vì nó không để cho độc giả tự do, nó buộc họ phải đọc mình từ đầu đến cuối. Thay cho điều đó Pavic viết những cuốn sách mà đơn giản là KHÔNG THỂ đọc như thế được. Tác phẩm nổi tiếng của ông “Từ điển Khazars” về nguyên tắc là phi tuyến tính, giống như mọi cuốn từ điển. Một tiểu thuyết khác, “Phong cảnh vẽ bằng trà’, được tạo nên như ô chữ: phải đọc nó khi theo chiều dọc, khi theo chiều ngang. Cuốn “Mối tình cuối ở Constantinople” được xây dựng như trò bói bài taro: trước khi đọc nó phải xáo trộn và cứ mỗi lần phải xáo lại. Thực chất, tất cả những cái đó không phải là văn học viết, mà là biến thể của trò chơi điện tử được Pavic nâng lên mức nghệ thuật cao. Vả chăng, bây giờ điều quan trọng đối với chúng ta không phải là những phẩm chất nghệ thuật hiển nhiên của các tác phẩm của Pavic, mà là việc chỉ dựa trên các trang sách điện tử mới có thể đánh giá chúng được đầy đủ. Cái ông làm không đặt được lên giấy. Các tiểu thuyết của ông là những nốt trong một bản nhạc chỉ có thể nghe thấy được nhờ một công cụ điện tử.

Thí dụ của Pavic cho thấy sự xuất hiện sách điện tử không chỉ trùng với cuộc khủng hoảng của văn học truyền thống, mà còn chỉ ra các con đường có thể giải quyết cuộc khủng hoảng đó. Con đường chính ở đây là sự thay đổi các quan hệ giữa độc giả và nhà văn. Hiện nay văn học máy tính đang xem xét lại chúng một cách triệt để. Nó bứt khỏi mặt phẳng trang in để nhấn độc giả vào văn bản như vào bể bơi. Tại đây, đi theo chiều đo thứ ba do sách điện tử mở ra, chúng ta có thể ở vào vị trí đồng tác giả. Toàn bộ nền văn hóa hiện nay đã vận động theo hướng “tương tác”. Những tác giả thính nhạy nhất với tiếng gọi thời đại đã thấy sự cần thiết phải lôi kéo độc giả vào các trò chơi của mình. Thứ văn học như thế đem lại nghĩa đen cho câu nói nổi tiếng, mà hóa ra là có tính tiên tri, của Nabokov: “Kiệt tác của mọi nhà văn là độc giả của hắn”.

Có thể, chính là cần phải tìm trong thứ văn học máy tính, trò chơi, tương tác này cách đưa thế hệ tiếp sau của lứa tuổi đầu xanh tuổi trẻ hiện nay, lớp người lớn lên không phải bằng sách mà bằng thông tin điện tử, trở lại văn học. Chúng ta không thể hình dung một thứ văn học nằm ngoài văn hóa sách, nhưng chỉ cần nhớ lại là ngôn từ không chỉ cổ xưa hơn sách, mà còn hơn chính cả chữ viết. Thêm nữa trong các xã hội chưa có chữ viết, văn học dưới dạng folklore, ẩn trong các huyền thoại, các nghi lễ ma thuật, đã đóng vai trò lớn hơn trong nền văn minh chúng ta. Sách chỉ là một trong những hình thức tồn tại của văn học. Mà điều đó nghĩa là có thể có một cái khác đến thay thế nó. Chẳng hạn, sách điện tử.

Ngân Xuyên dịch từ tiếng Nga
Tạp chí “Inostrannaya Literatura” số 10/1999


(142/12-2000)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.

  • THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.

  • NGUYỄN THỊ MỸ LỘCLà người biết yêu và có chút văn hóa không ai không biết Romeo and Juliet của Shakespeare, vở kịch được sáng tác cách ngày nay vừa tròn 410 năm (1595 - 2005). Ngót bốn thế kỷ nay Romeo and Juliet được coi là biểu tượng của tình yêu. Ý nghĩa xã hội của tác phẩm đã được thừa nhận, giá trị thẩm mĩ đã được khám phá, hiệu ứng bi kịch đã được nghiền ngẫm... Liệu còn có gì để khám phá?

  • NGUYỄN VĂN HẠNH1. Từ nhiều năm nay, và bây giờ cũng vậy, chúng ta chủ trương xây dựng một nền văn nghệ mới ngang tầm thời đại, xứng đáng với tài năng của dân tộc, của đất nước.

  • HỒ THẾ HÀ(Tham luận đọc tại Hội thảo Tạp chí văn nghệ 6 tỉnh Bắc miền Trung)

  • LÊ GIA NINHNgày 10 tháng 10 năm 1955, Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa bừng lên niềm vui, ngập trong cờ, hoa và nắng thu. Những chàng trai ngày “ra đi đầu không ngoảnh lại”, trải qua cuộc trường chinh ba ngàn ngày trở về trong niềm vui hân hoan và những dòng “nước mắt dành khi gặp mặt” (Nam Hà).

  • THANH TÙNGChống tham nhũng, đục khoét dân lành không chỉ là công việc của nhà chức trách mà còn ở tất cả mọi người dù ở chế độ xã hội nào. Các thi sĩ không chỉ làm thơ ca ngợi cuộc sống tình yêu, đất nước con người mà còn dùng ngọn bút thông qua nước thi phẩm của mình để lên án, vạch mặt bọn quan tham này.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNTrong lịch sử các nhà khoa bảng ở Việt , ít có gia đình nào cả ba ông cháu, cha con đều đỗ Trạng nguyên. Đó là gia đình Trạng nguyên Hồ Tông Thốc ở Kẻ Cuồi, Tam Công, Thọ Thành, Yên Thành, Nghệ An.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊN1. Trước hết ta phải bàn với nhau về chữ hay, tức thế nào là một tác phẩm hay. Bởi cái hay không bất biến trong không gian và thời gian, nó vận động và biến đổi tùy theo hoàn cảnh, với những tiêu chí cụ thể khác nhau.

  • TRẦN HUYỀN SÂMRuồng bỏ - Disgrace (1) là một cuốn tiểu thuyết mang phong cách giản dị. Nhưng đó là sự giản dị của một bậc thầy về thể loại roman. Giới lý luận văn học và các chính trị gia phương Tây (2) đã đặt ra những câu hỏi có tính hoài nghi. Điều gì ở cuốn sách có độ trang khiêm tốn này đã mang lại giải Nobel cho Coetzee: Vấn đề kỹ thuật tiểu thuyết, nỗi điếm nhục về nhân cách con người, hay là bi kịch lịch sử hậu Apartheid?

  • NGUYỄN THÀNHLịch sử phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX đánh dấu bởi nhiều khuynh hướng phê bình hiện đại: phê bình ấn tượng, phê bình phân tâm học, phê bình xã hội học, phê bình mác xít, phê bình thi pháp học...

  • TRẦN LỘC HÙNG“NỒI HƠI NGUYÊN TỬ” NGĂN NGỪA THẾ CHIẾN THỨ BAChuyện kể rằng sau cuộc thử nghiệm thành công của trái bom nguyên tử đầu tiên vào năm 1949, cha đẻ của nó - Igor Vaxilevich Kurchatov - đã khóc nức nở.

  • HÀ VĂN THỊNHSố 7 là một con số huyền thoại. Nếu như tính xuất xứ xa nhất, công đầu về việc “tìm ra” số 7, thuộc về người Ai Cập, cách nay ít nhất 5.000 năm. Khi hiểu được rõ ràng việc con sông Nil chia làm 7 nhánh trước lúc đổ ra Địa Trung Hải, người Ai Cập vận “lý” để tin là nó nhất định phải hàm chứa nghĩa bí ẩn nào đó phản ánh cái “tư tưởng” triết lý của Đấng Tạo hóa.

  • TRẦN VIẾT THIỆNNăm 1987, người ta từ ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến sững sờ trước sự trình làng của một cây bút đã vào độ tứ tuần. Tuổi bốn mươi lại là thời kỳ son sắt nhất của cây bút này, nói theo quan niệm của ông: “Đời viết văn cũng giống như đời người đàn bà”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO - NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Trích)...

  • TRẦN NGỌC CƯChúng ta thường nghĩ rằng ở trong mỗi tâm hồn Việt Nam đều có một thi sĩ, hay nói thế khác, người Việt Nam sinh ra và lớn lên trong bầu khí văn hoá ra-ngõ-gặp-thi-nhân. Đầu đời là những câu ca dao mẹ hát ru con, cuối đời là câu kinh tiếng kệ, những lời nguyện cầu, đều là thơ cả.

  • PHẠM TUẤN ANHSau 1975, văn xuôi đóng vai trò chủ đạo trong vận động đổi mới của văn học Việt Nam. Vai trò cách tân của văn xuôi đã được khẳng định đồng thời với vị thế mới của cái hài. Cái hài, với tiếng cười hài hước (humor) phồn thực đã góp phần quan trọng trong quá trình giải thể ý thức “quần thể chính trị”, để văn học thoát khỏi cục diện nhất thể của cái cao cả, sáp tới cuộc sống muôn màu với những giá trị thẩm mĩ đa dạng.