JORGE LUIS BORGES
Jorge Luis Borges (tên đầy đủ là Jorge Francisco Isidoro Luis Borges Acevedo) sinh ngày 24 tháng 8 năm 1899 tại Buenos Aires, Argentina.
Nhà văn Jorge Luis Borges năm 1976 - Ảnh: wiki
Gia đình ông dời đến châu Âu năm 1914, rồi đến Tây Ban Nha năm 1918, ở đó Borges được tiếp xúc với nhiều nhà thơ trẻ thuộc phong trào tiên phong, đặc biệt là các nhà thơ thuộc nhóm cực đoan. Năm 1921 Borges trở lại Buenos Aires, được công nhận là một trong những nhà thơ hàng đầu thuộc phong trào tiên phong Argentina. Từ những năm ba mươi tuổi, ông ngày càng có khuynh hướng rời xa thơ ca để chuyển sang thể loại nghị luận và truyện ngắn. Sau khi xuất bản hai tập truyện, Ficciones và El Aleph, Borges nổi tiếng quốc tế. Năm 1961, ông cùng đoạt giải thưởng International des Editeurs với Samuel Beckett. Năm 1966 ông đoạt giải thưởng Văn chương Thường Niên của tổ chức Ingram Merrill Foundation do công đóng góp vượt mức cho văn chương. Năm 1971, ông đoạt giải thưởng “Jerusalem Prize”, năm năm trao một lần. Năm 1973, ông được giải thưởng văn hóa cao quý nhất của Mexico là “Premio International Alfonso Reyes”. Năm 1980, cùng với Gerado Diego nhận giải thưởng “Premio Cervantes” trao cho văn học tiếng Tây Ban Nha.
![]() |
Borges được cho là nhà văn có sức ảnh hưởng nhất của châu Mỹ Latinh. Tập truyện ngắn tiếng Anh đầu tiên của ông là Labyrinths, tiếp theo là các tập khác gồm có Ficcions, The Aleph and Other Stories, A Personal Anthology, Dreamtigers, Dr.Brodie’s Report, và In Praise of Darkness. Ông còn có tập thơ Selected Poems.
Borges mất ngày 14 tháng 6 năm 1986 (thọ 86 tuổi).
![]() |
![]() |
Sách Cát
“Sợi thừng cát của ngươi…” - George Herbert
Đường vạch hình thành bởi vô số điểm, mặt phẳng hình thành bởi vô số đường, khối hình thành bởi vô số mặt phẳng, siêu khối hình thành bởi vô số khối… Không, thêm nhiều tính hình học hơn rõ ràng không phải là cách tốt nhất để bắt đầu truyện của tôi. Ngày nay yêu cầu truyện chân thật là quy định ngầm dành cho mỗi truyện được hình thành. Tuy nhiên truyện của tôi là thật.
Tôi sống một mình trong một căn hộ tầng bốn trên đường Belgrano, ở Buenos Aires(1). Xế một buổi chiều cách đây vài tháng, tôi nghe một tiếng gõ cửa. Tôi mở cửa và một người lạ đứng đó. Anh ta cao, không có đặc điểm gì đặc biệt - hay có thể vì tật cận thị của tôi mà trông ra như thế. Mặc vét xám và xách một cái vali màu xám, anh ta có vẻ nghèo. Tôi thấy ngay anh ta là người nước ngoài. Trước tiên, anh ta gây ra cho tôi cảm giác anh ta già, sau đó tôi mới nhận ra rằng tôi đã nhầm vì mái tóc vàng nhạt gần như trắng lưa thưa của anh, theo kiểu của người Scandinavia(2). Trong thời gian nói chuyện của chúng tôi, không hơn một giờ, tôi biết anh người ở Orkneys(3).
Tôi mời anh ta vào, chỉ một cái ghế. Anh ta im lặng một chút trước khi nói. Một vẻ buồn buồn toát ra từ anh - như bây giờ toát ra từ tôi.
“Tôi bán Kinh Thánh”, anh ta nói.
Làm ra vẻ thông thái, tôi đáp, “Trong nhà này có nhiều sách Kinh Thánh tiếng Anh, kể cả bản đầu tiên của John Wiclif. Tôi cũng có bản của Cipriano de Valera, Luther - những bản theo quan điểm văn chương, là tệ nhất - và một bản Latinh của Vulgate. Anh thấy đấy, Kinh Thánh thật không đúng là nhu cầu của tôi”.
Sau một chút im lặng, anh ta nói, “Tôi không chỉ bán Kinh Thánh. Tôi có thể đưa ông xem một quyển sách thiêng tôi tình cờ mua được ở ngọai vi thành phố Bikaner(4). Nó có thể làm ông quan tâm”.
Anh ta mở vali và đặt cuốn sách lên bàn. Đó là một cuốn sách in khổ tám, bọc trong vải. Rõ ràng là nó đã được chuyền qua nhiều tay. Xem xét cuốn sách, tôi ngạc nhiên vì sức nặng khác thường của nó. Ở gáy sách là dòng chữ “Holy Writ - Kinh Thánh” và, phía dưới dòng chữ, “Bombay”(5).
“Có thể thuộc thế kỷ mười chín”, tôi nhận xét.
“Tôi không biết”, anh ta nói, “Tôi không tìm hiểu”.
![]() |
Minh họa: Nhím |
Tôi mở cuốn sách một cách ngẫu nhiên. Bản sách đối với tôi là lạ. Các trang, đã sờn và chất lượng in thì kém, được trình bày hai cột, như trong một cuốn Kinh Thánh. Nội dung được in sát nhau, và được đặt thành những bài thơ ngắn. Ở hai góc trên của các trang sách đánh số A rập. Tôi thấy một trang ở phía tay trái mang số (ví dụ) 40.514 và ở trang phải số trang 999. Tôi lật trang, nó được đánh dãy số 8 con. Nó cũng có một minh họa nhỏ, như minh họa trong các cuốn tự điển - một mỏ neo được vẽ bằng bút mực, như thể do một bàn tay học trò vụng về.
Đúng lúc này chàng trai lạ nói, “Hãy nhìn kỹ minh họa. Ông sẽ không bao giờ thấy lại nó nữa”.
Tôi lưu ý chỗ đó và gấp sách lại. Rồi ngay lập tức tôi lại mở ra. Lần lượt lật trang này sang trang khác, tôi tìm minh họa hình mỏ neo, nhưng vô ích. “Có vẻ nó là một bản Kinh Thánh bằng tiếng Ấn Độ, đúng không?” Tôi nói để giấu sự mất hết can đảm của mình.
“Không”, anh ta đáp. Rồi, như thể giải bày một bí mật, anh ta hạ thấp giọng. “Tôi đổi được cuốn sách bằng một ít tiền rupi và cuốn Kinh Thánh tiếng Anh. Chủ cuốn sách này không biết cách đọc nó. Tôi ngờ rằng ông ta cho cuốn Sách của các Sách này là một thứ bùa chú. Ông ta thuộc tầng lớp hạ đẳng, những người thuộc tầng lớp không thể đụng đến không ai giẫm lên bóng của ông ta mà không cảm thấy bị ô uế. Ông ta bảo tôi quyển sách của ông là Sách Cát, bởi vì cả sách và cát đều không có bắt đầu và kết thúc.
Chàng trai lạ bảo tôi mở trang đầu tiên.
Tôi để bàn tay trái của tôi lên bìa sách và, để ngón cái của tôi lên trang sách đầu tiên, tôi mở quyển sách. Hành động đó vô ích. Mỗi lần tôi mở sách, một số trang sách xuất hiện giữa bìa sách và ngón cái của tôi. Cứ như thể chúng sinh ra từ cuốn sách.
“Bây giờ hãy tìm trang cuối cùng”.
Lại một lần nữa tôi thất bại. Bằng một giọng không phải của tôi, tôi không thể tránh khỏi lắp bắp, “Không thể như vậy được”.
Vẫn bằng một giọng trầm, chàng trai lạ nói, “Không thể như vậy được, nhưng đúng là vậy. Số của các trang trong sách này là vô hạn. Không có trang nào là trang đầu tiên, cũng không có trang cuối cùng. Tôi không biết tại sao chúng được đánh số theo cách tùy tiện này. Có lẽ để thể hiện rằng những số hạng trong một chuỗi số vô hạn thì bất kỳ con số nào cũng được chấp nhận”.
Thế rồi, như thể anh ta đang nghĩ rành rẽ, anh ta nói, “Nếu không gian là vô hạn, chúng ta có thể ở bất kỳ điểm nào trong không gian. Nếu thời gian là vô hạn, chúng ta có thể ở bất kỳ điểm nào trong thời gian”.
Quan điểm của anh ta làm tôi khó chịu. “Anh nhiều đức tin, đúng không?” Tôi hỏi.
“Phải, tôi là tín đồ của Giáo hội Trưởng lão. Lương tâm của tôi trong sạch. Tôi không lừa người bản xứ đó khi tôi đưa cho ông ta cuốn Lời của Thượng đế đổi lấy cuốn tà thư ”.
Tôi đảm bảo với anh ta rằng anh ta không có gì để tự trách cứ, và tôi hỏi anh ta có định đi hết đất nước này không. Anh ta đáp rằng anh định về quê trong vài ngày nữa. Khi ấy tôi biết rằng anh ta là một người Scotland quê ở Orkney. Tôi nói với anh ta rằng tôi có tình cảm sâu đậm với Scotland, thông qua tình yêu của tôi dành cho Stevensons và Hume.
“Ông muốn nói là Stevensons và Robbie Burns”, anh ta sửa lại.
Trong khi chúng tôi nói chuyện, tôi tiếp tục khám phá cuốn sách vô tận. Giả vờ không có gì xao động, tôi hỏi, “Anh có định chào cuốn sách kỳ lạ này cho Bảo tàng Anh hay không?”
“Không. Tôi chào nó với ông”, anh ta nói, và anh ta định ra một giá cao cho cuốn sách.
Tôi trả lời, với tất cả chân thành, rằng một cái giá như thế là ngoài tầm với của tôi, và tôi bắt đầu suy nghĩ. Sau vài phút, tôi nghĩ ra cách.
“Tôi đề nghị trao đổi”, tôi nói. “Anh có cuốn sách này với một số tiền rupi và một cuốn Kinh Thánh. Tôi sẽ đưa anh khoản lương hưu của tôi, mà tôi vừa nhận về, và bản Kinh Thánh Wiclif chữ Gô tích của tôi. Tôi thừa hưởng cuốn này từ tổ tiên đấy”.
“Một bản Wiclif chữ đen!”, anh ta thì thầm.
Tôi đi vào phòng ngủ mang tiền và cuốn sách ra cho anh ta. Anh ta lật các trang sách và xem tiêu đề trang với vẻ say sưa của một người mê sách thật sự.
“Đồng ý như vậy”, anh ta nói.
Tôi ngạc nhiên vì anh ta không mặc cả gì. Chỉ sau này tôi mới nhận ra rằng anh ta vào nhà tôi với ý định bán đi cuốn sách đó. Anh ta không đếm tiền, chỉ cất vào túi.
Chúng tôi trò chuyện về Ấn Độ, về Orkney, về những nhà quý tộc Na Uy từng cai trị nó. Trời đã tối khi anh ta rời đi. Tôi không gặp lại anh ta nữa, mà cũng không biết tên anh ta.
Tôi định để cuốn Sách Cát vào phía trái trên giá sách thay cho quyển Wiclif, nhưng sau đó tôi quyết định giấu nó vào phía sau các tập truyện “Một ngàn lẻ một đêm”. Tôi vào giường nhưng không ngủ được. Tầm ba hay bốn giờ sáng, tôi mở đèn lên. Tôi lấy cuốn sách lạ thường xuống và lật qua các trang của nó. Trên một trang sách, tôi thấy chạm một cái mặt nạ. Góc trên của cuốn sách có một con số, mà nay tôi không còn nhớ nổi, lên đến lũy thừa chín.
Tôi không cho ai thấy vật quý của mình. Cùng với sự may mắn có được nó là nỗi sợ hãi bị mất nó, rồi là nỗi âu lo cuốn sách có thể không thực sự là vô hạn. Hai mối ưu tư này làm gia tăng tư tưởng yếm thế cố cựu của tôi. Tôi chỉ còn một vài người bạn, bây giờ tôi cũng không muốn gặp họ nữa. Là tù nhân của cuốn sách, bây giờ tôi không còn đi đâu. Sau khi nghiên cứu gáy sách và bìa đã sờn của nó bằng một cái kính lúp, tôi loại bỏ khả năng đó là sản phẩm giả của bất kỳ thủ đoạn nào. Những hình minh họa nhỏ được tôi thẩm tra lại, qua hai ngàn trang riêng biệt. Tôi liệt kê chúng theo vần chữ cái trong một cuốn sổ, mà không lâu sau tôi đã ghi đầy. Không có một minh họa nào lập lại hai lần. Ban đêm, trong những cơn chợp mắt chập chờn vì chứng mất ngủ, tôi mơ thấy quyển sách.
Mùa hè đến rồi đi, tôi nhận ra quyển sách là quái dị. Điều tốt nào đã làm tôi nghĩ rằng tôi, người nhìn vào tập sách bằng mắt mình, người cầm nó trong tay mình, ít quái dị hơn? Tôi cảm thấy quyển sách là một cơn ác mộng, một vật ghê rợn tự nó sỉ nhục và làm ô uế hiện thực.
Tôi nghĩ đến lửa, nhưng tôi sợ rằng việc đốt một quyển sách vô hạn có thể cũng vô hạn và làm hành tinh này chết ngạt vì khói. Tôi nhớ đã đọc ở đâu đó rằng nơi tốt nhất để giấu một chiếc lá là ở trong rừng. Trước khi về hưu, tôi làm việc ở đường Mexico, tại thư viện quốc gia Argentine, chỗ chứa chín trăm ngàn quyển sách. Tôi biết ở bên phải lối vào có một cầu thang lượn dẫn xuống tầng hầm, ở đó sách, bản đồ và tạp chí định kỳ được lưu giữ. Một hôm tôi đến đó, tránh được nhân viên quản lý, tôi giấu quyển Sách Cát vào một trong các giá sách ẩm mốc ở tầng hầm, cố không lưu ý đến chỗ đó cách cửa bao xa và bao cao.
Võ Hoàng Minh dịch
(Từ “The book of sand”)
Nguồn: http://www.geocities.com/tidbits4you/BookOfSand.html
(TCSH355/09-2018)
-------------------
Chú thích của người dịch:
(1) Buenos Aires: Thủ đô của nước Argentina.
(2) Scandinavia: Vùng Scandinavia ở Bắc Âu, gồm các nước: Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển và hàng ngàn đảo nhỏ. Đôi khi Phần Lan cũng được cho thuộc về vùng này.
(3) Orkneys: Một địa danh thuộc Scotland (Tô cách lan).
(4) Bikaner: Thành phố vùng tây bắc bang Rajasthan, Ấn Độ.
(5) Bombay: Thành phố thuộc Ấn Độ, từ 1995 đổi tên là Mumbai.
ANTONIO TABUCCHIAntonio Tabucchi (sinh năm 1945) là một trong những nhà văn được đọc nhiều nhất và dịch nhiều nhất hiện nay của Italia, bậc thầy nổi tiếng về truyện ngắn tâm lý.
IVAN BUNHINLúc ông ta đội mũ, đi trên phố hay đứng trong toa tàu điện ngầm không thấy rõ mái tóc cắt ngắn hung hung đỏ có những sợi lóng lánh, qua vẻ tươi tỉnh của gương mặt gầy, nhẵn nhụi, thân hình cao xương xương cứng đơ trong chiếc pan- tô không thấm, có thể đoán ông không quá 40. Chỉ cặp mắt xám nhạt luôn chứa một nỗi buồn khô khốc nói lên rằng ông là một người đã nếm trải nhiều trong cuộc đời.
LTS: Anatoli Kudraves là một nhà văn Beloruxia tài năng. Phần lớn các tác phẩm của ông thể hiện cuộc sống của những người nông dân, người chủ chân chính, giàu bản sắc riêng và chân thành của chính quê hương mình. Tác giả đã dẫn dắt nhân vật của mình trải qua công việc tập thể hóa nông nghiệp, trải qua những năm tháng khốc liệt của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại và cả thời kỳ kinh tế đổ nát sau chiến tranh cho đến ngày hôm nay.
BỒ TÙNG LINHLang Mỗ quê ở Bành Thành, con nhà học thức. Ngày nhỏ đã được nghe cha nói đến các sách quý và các sách khác trong nước, lại thường được nghe cha luận bàn với các bạn bè của ông về các loại sách và các nhà thơ cổ đại.
AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.
AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.
Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…
Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.
HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.
SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.
KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.
FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.
MIKHAIN SÔLÔKHỐP Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.
KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.
ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.
GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.
GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.
JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.
SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.
DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.