NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc “Phùng Quán & Tôi” của Xuân Đài, Nxb. Phụ nữ Việt Nam, 2020)
Những năm qua, cứ mùa Xuân đến là bạn bè của nhà văn Phùng Quán (1/1932 - 22/1/1995) tại Huế lại có dịp về thăm nơi ông yên nghỉ trên vùng đồi quê hương Thủy Dương. Xuân 2021 này, nhà văn của “Tuổi thơ dữ dội” tiếp bước những nhân vật của mình đã 36 năm. Tuy vậy, Phùng Quán vừa “hiện diện” trong một cuốn sách khiêm tốn nhưng rất cảm động, do một bạn văn thân thiết của ông ghi lại: “Phùng Quán & Tôi” của Xuân Đài, Nxb. Phụ nữ Việt Nam vừa ấn hành cuối năm 2020.
Sau ngày Phùng Quán qua đời, hầu hết tác phẩm của anh đã được tái bản, chuyện đời và những kỷ niệm với Phùng Quán đã được nhà thơ Ngô Minh sưu tập và công bố. Tưởng không còn “sự tích” gì về Phùng Quán để kể với bạn đọc nữa. Nhưng đọc“Phùng Quán & Tôi”, mới hay còn nhiều chuyện chúng ta chưa biết; mặt khác, từ góc nhìn của người bạn thân thiết, các “sự tích” của Phùng Quán đã lưu truyền như được mang thêm tầng ý nghĩa.
Đọc 2 cuốn “Nhớ Phùng Quán” và “Phùng Quán còn đây”, ai cũng nghĩ mối tình đầu của Phùng Quán là với cô gái ở vùng biển Thanh Hóa; nhưng Xuân Đài khẳng định: “Theo tôi, không phải vậy, đó chỉ là những rung động đầu đời của anh lính trẻ với cô gái tên Như… Mối tình đầu của Phùng Quán là với cô văn công công tác ở Tổng cục Chính trị (tôi đổi tên thật cô, thay bằng T.H). Đó là năm 1955, Phùng Quán mới về làm việc ở số 4 Lý Nam Đế…”. Từ năm 1957, đây là trụ sở Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Chính Phùng Quán đã viết “ở ngôi nhà này… tôi được in tác phẩm đầu tay, lĩnh món nhuận bút đầu tiên, yêu mối tình đầu và tan vỡ mối tình đó…”. Mỗi khi có dịp ra phố với người yêu, Phùng Quán thường rủ cả Xuân Đài đi ăn. “Ăn là cái cớ, cái chính là nghe Phùng Quán đọc thơ vừa làm tặng T.H. Những bài thơ chân tình, thật thà, bây giờ đọc lại thấy ngô nghê, buồn cười… Có hai đứa yêu nhau/ Cả hai cùng bộ đội/ Cờ Tổ quốc trên đầu / Đứa Huế, đứa Hà Nội.”.
Xuân Đài còn cho biết đã được Phùng Quán cho xem cuốn nhật ký viết chung hai người trong quyển lịch nhỏ năm Ất Mùi. T.H là diễn viên văn công quân đội, biểu diễn, tập tành, họp hành, hết giờ phải tắt đèn ngủ, nhưng “với tình yêu tôn thờ một người tài… cô đọc Vượt Côn Đảo không giống ai… Mắc màn xong, cô lấy mấy quyển sách xếp dọc giữa giường, lấy chăn trùm kín… Trực ban kiểm tra tưởng cô đã ngủ…”. Thực ra cô trốn ra nhà vệ sinh, say sưa đọc “Vượt Côn Đảo” trong 3 đêm liền!...
Mối tình đầu đẹp như thế đã tan vỡ chỉ một năm sau. Đó là lúc Phùng Quán viết hai bài thơ sau khi được quân đội cử đi thực tế cải cách ruộng đất Đợt 5 tại Kiến An (Hải Phòng), trước cảnh đói khổ của nông dân mà có nơi xây lễ đài tốn tiền triệu bỏ dở, nhà thơ chiến sĩ đã viết những câu thơ chống tham ô lãng phí sắc bén, dữ dội đúng với phẩm cách người lính Cụ Hồ: “Tôi đã đi qua/ Những xóm làng vùng Kiến An, Hồng Quảng…/ Hai mùa rồi lúa không có một bông/ Phân người toàn vỏ khoai tím đỏ… Tôi đã gặp/ Những bà mẹ quấn dẻ rách…”. Nhà thơ trẻ kêu lên: “Các đồng chí ơi…/ Về Nam Định mà xem/ “Đài xem lễ” họ cao hứng dựng lên/ Nửa chừng bỏ dở…/ Bọn tham ô, lãng phí, quan liêu/ Đảng đã phê bình trên báo/ Còn bao tên chưa ai biết ai hay…/ Chúng nảy nòi, sinh sôi như dòi bọ!.../ Trung ương Đảng ơi!/ Lũ chuột mặt người chưa hết/ Đảng cần phải lập những đội quân trừ diệt/ Có tôi!/ Đi trong hàng ngũ tiên phong.”
Bài thơ dài có thể nhiều người đã đọc ở những cuốn sách tuyển tác phẩm của Phùng Quán, nhất là sau khi Phùng Quán được “minh oan”, rồi được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007 (đợt 2). Tôi chỉ trích một số câu Phùng Quán viết từ 65 năm trước mà tưởng như nhà thơ mới viết hưởng ứng cuộc đấu tranh chống tham nhũng mà Đảng và Nhà nước ta đang quyết liệt tiến hành, để thấy những văn nghệ sỹ lớn thường có tầm nhìn xa, hoặc gọi là “tiên báo”; cũng để thấy cách nhìn nhận và lãnh đạo văn nghệ đã được Đổi mới rất nhiều. Một bài thơ đậm tính chiến đấu, tính Đảng như thế, từ chỗ bị quy kết các tội danh “chết người”, đã thành tác phẩm được nhiều thế hệ truyền tụng. Bài thơ “Lời mẹ dặn” cũng có số phận như thế! Có lẽ cũng không nên trách cô diễn viên T.H đã khiếp sợ khi Phùng Quán bị kết “tội”, “cô ra mặt lánh xa Phùng Quán… Phùng Quán tìm T.H, dang hai tay chặn lại, thái độ van nài, em cho anh nói một câu. T.H lạnh lùng nói: Tôi không có chuyện gì để nói với anh nữa. Cô bước nhanh, dứt khoát…”!
Một mối tình… buồn, nhưng lại làm nổi bật sự chung thủy của Phùng Quán. “Hơn 10 năm sau, khi Phùng Quán đã là cán bộ ở Vụ Văn hóa quần chúng, đi công tác miền Trung, nhớ đến bạn gái cũ đang sơ tán ở một huyện miền núi, Phùng Quán đạp xe tìm nàng…”. Tiếc là H.T vẫn sợ và cả nghi ngờ, không tiếp người yêu năm xưa. Nhắc lại chuyện tình đầu của Phùng Quán, chúng ta càng trân quý vẻ đẹp của chị Bội Trâm - giáo viên trường Chu Văn An (Hà Nội) đã can đảm vượt qua dư luận lầm lạc một thời, bất chấp sự ngăn cản quyết liệt của gia đình, đã tận tình, tận hiến với Phùng Quán đến cuối đời, để chúng ta có di sản vô giá của nhà thơ chiến sĩ Phùng Quán lưu truyền cho hậu thế.
Trong “Phùng Quán & Tôi”, nhà văn Xuân Đài còn cho chúng ta biết nhiều “chuyện tình” thật đẹp của Phùng Quán - không phải tình yêu trai gái mà là tình người cao thượng đối với bạn bè, nhất là với những ai đang thất thế. Cả với những người gặp nhất thời, Phùng Quán cũng đối đãi thân tình. Lúc mới ra quân, Phùng Quán đến ở nhờ nhà một ông lão bên sông Hồng; nhà tranh vách nứa, chỉ hai bố con. Phùng Quán cơi thêm một chái sát vách ông cụ, xa buồng cô gái, để cụ an tâm! Không ngờ, đêm khuya, ông cụ thì ho khù khụ, Phùng Quán thì hứng chí đọc to câu thơ vừa làm; cụ không hiểu, trách: “Thơ phú cái gì mà hết rên hư hự lại lẩm bẩm. Anh nằm yên cho tôi nhờ!” Cô gái lên tiếng bênh Phùng Quán, làm cụ thêm nghi, thêm bực. Thế là Phùng Quán ba lô khăn gói tìm chỗ ở mới, mặc cho trước đó cụ đã hiểu ra, nài nỉ anh ở lại. Chia tay, Phùng Quán biếu cụ bộ quần áo mới tinh vừa giặt, làm cụ càng hối hận, bảo anh cứ ở lại, chuyển chái nhà sang phía con gái “để đêm đêm được yên tĩnh làm thơ”…
Phùng Quán là vậy. Anh sẵn sàng cho bạn bè những thứ mình có. Như khi có nhuận bút cuốn “Vượt Côn Đảo”, Phùng Quán mua mấy đồng hồ tặng bạn bè, riêng với “Huy Thành vừa là bạn, vừa là cấp chỉ huy của tao hồi ở Trung đoàn 101, thì ngoài cái đồng hồ, tao có mua cho nó cái xe đạp”. Phùng Quán đã kể với Xuân Đài như vậy. Huy Thành về sau trở thành đạo diễn điện ảnh nổi tiếng. Phùng Quán từng viết: “Nếu phần mộ tôi là vị trí tốt để đánh mìn/… Hãy đào mộ tôi lên…/ Và thay vào đó cho tôi một trăm cân thuốc nổ.”
Con người quyết liệt như vậy trong văn chương, đã được nhiều tầng lớp yêu quý. Khi anh qua đời, trong cuộc tiễn đưa anh “có một vòng hoa rất đặc biệt, đó là vòng hoa “Những người câu cá trộm”… chủ yếu là xóm Nghi Tàm… Họ đi hàng dọc từ ngoài ngõ, theo vòng hoa, chầm chậm bước vào, tập hợp quanh linh cữu thành vòng tròn. Một người lớn tuổi nhất bước lên một bước, dõng dạc hô: “Nghiêm! Phút mặc niệm người đồng đội vô cùng thân yêu của chúng ta, nhà văn tài năng, nhà câu cá bậc thầy, bắt đầu!”
Cũng thật đặc biệt, đã có ai như Phùng Quán, khi qua đời, được bạn thơ Ngô Minh, tuy chẳng là đồng hương, đồng họ, nhưng là đồng yêu say đắm “bầu rượu túi thơ”, đã đứng ra kêu gọi bạn đọc gần xa góp tiền xây nơi yên nghỉ thật đẹp trên vùng đồi quê nhà Thủy Dương, cùng với chị Bội Trâm, người phụ nữ nêu tấm gương dám vượt qua mọi trở lực để bảo vệ tình yêu cao đẹp của mình…
N.K.P
(TCSH388/06-2021)
PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.
...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...
…Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…
NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)
Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.
VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)
NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.
HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.
LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.
NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.
PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.
Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.
PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.
ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.
NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".
HOÀNG KIM DUNG (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)
PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...