Phòng tranh tháng năm của 7 hoạ sĩ Huế

11:52 22/05/2008
Triển lãm theo nhóm đã là truyền thống có từ nhiều năm nay của các họa sỹ Huế. Bên cạnh một số triển lãm cá nhân thỉnh thoảng mới xuất hiện thì triển lãm nhóm dễ có điều kiện ra mắt thường xuyên hơn.

Ước mơ hàng xóm

Bước vào phòng tranh của nhóm tác giả, người thưởng ngoạn dễ tìm được cảm giác sung sướng, sảng khoái bởi sự phong phú của nhiều loại bút pháp; Có nghĩa, dễ tránh được sự nhàm chán trong thưởng ngoạn. Một loạt những triển lãm nhóm vào dịp Festival Huế 2000, mà trong đó nhóm họa sỹ Huế riêng biệt cũng có, hoặc nhóm họa sỹ Huế phối hợp với các nhóm hoạ sỹ Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng tạo nên bầu không khí đa dạng về văn hoá cho Huế trong những ngày diễn ra lễ hội Festival.
Sáng tạo nghệ thuật hoàn toàn mang tính độc lập cá thể. Mỗi họa sỹ có một khoảng không gian sáng tạo của riêng mình. Không gian ấy rộng hay hẹp, mở nhiều hay mở ít là tuỳ thuộc vào quan niệm nghệ thuật, vào vốn sống, vào tầm nhìn, vào tư duy của mỗi người. Song, trong các họa sỹ thường vẫn tìm được tiếng nói chung, bởi cái đẹp thì rất riêng nhưng cũng rất chung, rõ ràng đấy mà ẩn náu cũng đấy. Trong từng nhóm họa sỹ, tiếng nói chung lại càng dễ tìm thấy.
Sau sự kiện Festival Huế 2000, không khí triển lãm tranh ở Huế có chiều hướng lắng xuống. Cho nên, bên cạnh phòng tranh mang tính thường xuyên tại trụ sở Tạp chí Sông Hương của 6 họa sỹ: Dương Đình Sang, Hoàng Đăng Nhuận, Nguyễn Duy Linh, Phạm Đại, Lê Thừa Tiến, Nguyễn Thiện Đức, thì triển lãm của 7 hoạ sỹ tại phòng tranh Hoàng Hoa Thám - Huế trong tháng 5 vừa qua, dù sao cũng tạo được một khuấy động nhỏ trong đời sống nghệ thuật của Huế, để lại dư âm trong lòng những người yêu hội họa.
Sự xuất hiện của họa sỹ Vĩnh Phối như một sự “lùi về”, sự trẻ lại cùng 6 người kia. Là một hoạ sỹ, ông còn là một giảng viên hội họa lão luyện. Ông thuộc thế hệ họa sỹ thứ hai của Huế. Có nghĩa, họa sỹ Vĩnh Phối đã góp phần đào tạo cho Huế ba thế hệ họa sỹ tiếp nối mình. Ông vẽ không nhiều, song mỗi tác phẩm của ông đều phảng phất một sự chiêm nghiệm nào đó với cuộc sống, nó còn là tiếng nói mạnh bạo của ông được thoát ra từ cõi lòng sâu kín. Lần này với một số tranh trừu tượng: “Cổ tự và con người, Người hang động, Tình mẫu tử tuy đường nét ít bay bướm mà chỉ là những mảng màu sù sì, thô, khoẻ nhưng lại giàu cảm xúc, như muốn biểu đạt một sự trầm tư, lại không kém phần dữ dội trong tâm hồn người nghệ sỹ. Họa sỹ Vĩnh Phối được coi là một trong những người vẽ tranh trừu tượng đầu tiên ở Huế.
Lê Quý Long mặc dù đã có gallery riêng của mình, song anh vẫn tích cực tham gia triển lãm trong nhiều nhóm tác giả. Điều ấy để thấy, anh cũng “thèm” có tiếng nói chung lắm chứ! Lê Quý Long hiện đang được coi là một hoạ sĩ tiêu biểu của Huế dám vật lộn với nghệ thuật trong cơ chế thị trường. Với Vùng đất mới, Thì thầm, Thiếu nữ xanh, từ những đường nét mềm mại pha chút khói sương mờ ảo, đặc trưng cho cái sầu lắng của một tâm hồn Huế, Lê Quý Long đã thể hiện rõ một phong cách mang đậm đặc những yếu tố truyền thống. Bên cạnh đó, một số bức khác của anh như Đồng cảm, Nắng thu, Xóm quê lại thể nghiệm theo một mô típ khác, đường nét phóng khoáng hẳn, bố cục đơn giản nhưng lạ mắt và giàu sức quyến rũ.
Trong các bức tranh Suy nghiệm, Nắng mùa đông, Em và ngựa đá của Đặng Mậu Tựu lại nặng về tính triết lý. Nếu người xem để ý, rất dễ nhận ra, những dạng tranh thế này của anh xuất hiện khá nhiều trong mấy năm gần đây, khi anh tham gia trong các triễn lãm khác. Anh triết lý với nhân gian tạo hoá, với mọi lẽ sống trên đời. Có lẽ đây là sự thể nghiệm của anh. Xem tranh của anh dễ man mác buồn khi nhận ra cái vòng quay của cuộc đời, cái chu trình vận động của một đời người cứ yếu dần, yếu dần theo đường xoáy trôn ốc. Ngay trong bức Ngày xưa thương nhớ, ngọt ngào chất đồng quê là thế nhưng vẫn cứ dư cảm một nỗi buồn.
Nhóm 4 hoạ sỹ: Thân Văn Huy, Hồng Trọng Mỹ, Vũ Văn Thiện, Nguyễn Thái Hoà đã từng bày tranh chung với nhau trong rất nhiều triển lãm ở Huế, và cả ở Hà Nội. Tiếng nói chung trong tranh của 4 hoạ sỹ này có lẽ là sự trẻ trung sôi nổi; Cái cuồng nhiệt, nỗi khát khao, đam mê đến bỏng cháy trong tình yêu. “Sôi nổi” nhất là Hồng Trọng Mỹ, với màu sắc hơi chói loà, cường độ mạnh và gắt trong Vũ khúc đường mây, Nhật thực, khiến tranh của anh như thoát ra những chất lửa bùng cháy, thể hiện một cảm xúc mạnh, tốt độ. Song riêng trong Hoa vàng mây trắng lại thấy một sự lung linh dịu dàng.
Thân Văn Huy cẩn thận đến từng chi tiết nhỏ, bố cục chặt chẽ đến sít sao trong Tìm về, trong Chiều, trong Đêm hoa đăng... Tranh của Thân Văn Huy ít tìm thấy những đường nét tung tẩy, phóng khoáng, song nhìn tổng thể từng bức tranh, nó lại phát lộ cái chất mộng mơ, lãng đãng. Cách tiết chế màu sắc, nhất là tiết chế ánh sáng của anh đã tạo nên một không gian huyền ảo, đầy ma lực “cám dỗ” người xem. Người hoạ sỹ này vì mải bươn chải với cuộc sống mà nhiều năm phải buông bút. Anh chỉ mới vẽ lại khoảng 6 - 7 năm trở lại đây, nhưng cho đến nay có thể khẳng định một phong cách Thân Văn Huy không thể lẫn lộn với bất cứ hoạ sỹ nào.
Từ những sắc vàng rực rỡ trong Mùa thu của Vũ Văn Thiện, người xem như được hoà nhập cùng tác giả vào với cảm xúc yêu đời. Trong Con sóng nhớ bờ của anh thì lại trải rộng một nỗi nhớ mênh mông, bao la khắc khoải từ một hoài niệm nào đấy. Nguyễn Thái Hoà với Tình hồngCổng trời lại thấm đẫm cái chất dân dã của những miền quê. Nhìn chung, xem tranh của 4 hoạ sỹ: Vũ Văn Thiện, Thân Văn Huy, Hồng Trọng Mỹ, Nguyễn Thái Hoà dễ nhận thấy nội lực sáng tạo của họ đang còn tiềm tàng dồi dào lắm, ở đó chắc chắn sẽ còn nhiều bứt phá.
Phòng tranh này cũng như nhiều phòng tranh khác, chỉ rầm rộ trong ngày khai mạc. Những ngày tiếp theo người đến xem tranh thưa thớt. Đó là điều bình thường của Huế. Các phòng tranh như lại nhập vào cái uy nghiêm, trầm mặc của Huế. Chừng đó để thấy, khả năng xã hội hoá trong thưởng thức các tác phẩm hội hoạ ở Huế còn rất thấp. Chờ mãi mà Huế vẫn chưa có một thị trường tranh sôi động. Tất nhiên không phải vẽ để rồi cứ chằm hăm vào việc bán tranh, song nếu không bán được tranh thì cũng khó nuôi nổi sự sáng tạo, khi trong số 7 họa sỹ này thì hết 5 người là hoạ sỹ hành nghề tự do. Các nhà sưu tập tranh trong và ngoài nước hình như chưa mấy chú ý đến Huế, mặc dù tiềm năng sáng tạo của vùng đất này là vô cùng phong phú và đa dạng. Dù sao thì hầu hết các họa sỹ Huế vẫn ngày đêm âm thầm vẽ.
Theo họa sỹ Vĩnh Phối, trước 1975, trong số 12 họa sỹ được đánh giá hàng đầu miền Nam, thì có 8 họa sỹ của Huế. Nói lên điều ấy, ông muốn nhắc nhở các hoạ sỹ trẻ, từ truyền thống, hãy cố gắng khẳng định chỗ đứng vững chắc của mình hôm nay.
Huế, tháng 6 - 2001

VIỆT HÙNG
(nguồn: TCSH số 149 - 07 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HOÀNG DIỆP LẠC

    Bước vào văn đàn bằng tập truyện ngắn với những ám tưởng về màu đỏ của máu, tiếp theo là âm thanh tiếng reo của lửa trong tập truyện ngắn thứ hai, Lê Minh Phong đã phần nào khẳng định được tâm thế sáng tác trước mịt mù cơn lốc thông tin.

  • ĐẶNG MẬU TỰU 

    Khi còn là thủ phủ xứ Đàng Trong của các Chúa Nguyễn và các triều Vua nhà Nguyễn sau này, Huế đã huy động, thu hút những tinh hoa từ Bắc chí Nam về để phục vụ cho triều đình cũng như để phô diễn tài nghệ của mình.

  • NGUYỄN QUANG HÀ

    Tranh của họa sĩ Trương Bé chưa nhiều. Sau hai mươi năm kể từ khi tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội, số tranh anh vẽ khoảng chừng hai chục bức. Nhưng người xem tranh luôn luôn bị đột ngột về bước đi của anh.

  • LÊ HUỲNH LÂM  

    Bước vào nghệ thuật tạo hình ở tuổi bốn mươi, tuổi bước qua ngưỡng thanh xuân để trở về với chiêm nghiệm và tĩnh lặng, Điềm Phùng Thị đã khiến giới tạo hình thế giới phải quay đầu dừng lại, người xem như bị thôi miên bởi tác phẩm của bà.

  • NGUYỄN XUÂN HOA

    Năm 1973, ở quán cà phê ông Thân sát Tôn Nhân Phủ - chiếc quán nghèo gần như để dành riêng cho sinh viên hai trường Cao đẳng Mỹ thuật, Quốc gia Âm nhạc, giới nhạc sĩ, họa sĩ và những người yêu thích nghệ thuật ở Huế - lẫn trong những khuôn mặt quen thuộc, có một khuôn mặt lạ, say sưa nói về ước vọng của đời mình "sống chết cũng làm cho được mười tượng danh nhân tầm cỡ của Việt Nam", "mỗi bức tượng phải là một khuôn mặt rất đặc trưng của danh nhân".

  • Những cuộc “về lại”

    HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

  • TRẦN PHƯƠNG KỲ

    Níu vai phố rộng xin về.
    Với cây lá trút với hè nắng rung

                          BÙI GIÁNG

  • Tôn Nữ Kim Phượng sinh năm 1941 tại Phú Cát, Huế. Tốt nghiệp khóa 2 Cao Đẳng Mỹ Thuật - Huế (1958 - 1962). Huy chương Danh dự do Viện Đại Học Huế trao tặng (1959). Chị mất ngày 25 tháng 8 năm 2000 tại Huế, thọ 60 tuổi. Gia đình gồm 8 anh chị em. Phượng là con gái út sau này đi tu là Thích Nữ Diệu Trang, pháp danh Nguyên Nghi. Thân sinh là ông Bửu Hộ. Thân mẫu là bà Đặng Thị Lý Vinh. Hiện nay bà chị đầu Tôn Nữ Túy Nhạn đang trông coi một ngôi chùa Việt Nam ở Connecticut, gần New York - Hoa Kỳ.

  • LÊ HUỲNH LÂM

    Ký ức là khoảng không gian của quá khứ, là phạm trù thuộc về cái đã qua. Nhưng chính ký ức sẽ báo hiệu một điều gì sắp đến, có thể là cơn bão tương lai, một trận đại hồng thủy hay một sự tan biến vào hư không. Cũng như những giấc mơ trong cuộc đời, dù đã thuộc vào quá khứ, nhưng nó lại hàm ngụ dự báo cho một tương lai vui buồn. Tất cả không nằm ngoài những mắt xích nhân quả.

  • LGT: Điềm Phùng Thị tên thật là Phùng Thị Cúc. Sinh năm 1920, tại miền Trung. Hồi còn nhỏ học ở Huế và Hà Nội. Tốt nghiệp bác sĩ giải phẫu nha khoa tại Đại học Y khoa Paris (Pháp). Học điêu khắc từ 1959 - 1963.

  • LÊ HUỲNH LÂM

    Trong lịch sử phát triển của loài người, có sự đóng góp không nhỏ của loài ngựa. Ngựa là con vật chuyên chở mọi thứ của con người trên con đường tìm kiếm giấc mơ thần thoại của mình.

  • Trong kho tàng di sản vật thể và phi vật thể mà triều đình nhà Nguyễn để lại, tranh gương là một dạng di sản khá đặc biệt, vừa mang tính vật thể, lại vừa phi vật thể và được đánh giá là loại hình mỹ thuật mang bản sắc riêng của Huế bởi xuất xứ, cách thể hiện cùng chất liệu độc đáo của chúng. Có giá trị về mặt mỹ thuật cũng như lịch sử, thế nhưng hiện nay, di sản này đang đối mặt với nguy cơ thất truyền khi số lượng tranh hư hỏng rất lớn mà việc phục hồi lại gặp nhiều khó khăn. 

  • HUỲNH HỮU ỦY

    Rồng là một hình tượng hết sức phổ biến, đặc biệt gắn liền với Lân, Qui, Phượng trong đồ hình tứ linh trong nghệ thuật trang trí cổ.

  • VIỄN PHƯƠNG

    Đối với Kandinxky thì hội họa là sản phẩm của một sự căng thẳng trong nội tâm, phải ghi lại trạng thái tâm hồn chứ không phải là thể hiện vật thể.

  • VŨ TRƯỜNG GIANG  

    Ở gần cửa chánh Tây, ngày ngày người ta nghe thấy những nhát đục rộn ràng, khắc khoải len vào trong từng vỉa gạch âm thầm qua năm tháng. Người ta có thể đón một bình minh với những tiếng đục khoan thai chào ngày mới hay một đêm thâu văng vẳng tiếng chạm trên những thớ gỗ vô hình lẩn sâu trong trí tưởng.

  • ĐẶNG MẬU TỰU

    Có những dự định rồi lần lữa mãi không thành. Có những việc tình cờ mà thành. Chuyện ảnh Nude của nhà nhiếp ảnh Nghệ thuật Thái Phiên tiếng tăm lừng lẫy, ra sách ảnh và trên mạng cũng đã quen với các tác phẩm của ông.

  • TRẦN LÂM BIỀN

    "Mỹ thuật thế kỷ 19 ở Việt Nam là lai căng"?! Là sản phẩm của một triều đại phản động. "Trang trí Nguyễn là vênh váo"?! Là nghệ thuật cung đình xa cách nhân dân...!?

  • VIỄN PHƯƠNG

    (Về không gian hội họa Festival Huế 2012)
     

  • BỬU Ý “Cô gái Việt Nam”, tác phẩm điêu khắc tuyệt mỹ của Lê Thành Nhơn, có mặt tại Huế, dựng ở công viên trước mặt trường nữ lớn nhất ở đây: Trường THPT Hai Bà Trưng, trước đây là Trường Đồng Khánh, ngày 30-04-2011.