VIỆT HÙNG
(Nhân xem Triển lãm chào mừng 20 năm giải phóng Thừa Thiên Huế)
Hai mươi năm cố đô Huế được sống trong thanh bình. Hai mươi năm ấy, đủ thời gian cho một thế hệ tài năng mới tự do "tung cánh". Hai mươi năm nhiều "hạt giống” chắc, mẩy của hội họa Huế đua nhau nẩy mầm, ra lá xanh tươi. Và còn nhiều, đấy là điều chắc chắn, những "hạt" mùa sau đang chờ ngày nứt vỏ...
Huế tuy nhỏ nhưng người Huế luôn tự hào, bởi quê hương mình từ lâu đã trở thành cái nôi thứ ba của Việt Nam sản sinh ra những nhân tài hội họa. Trường Mỹ thuật Huế được thành lập năm 1957. Từ bấy đến nay, dầu trải qua bao thăng trầm của những biến động lịch sử nhưng nơi đây đã cho “ra lò" nhiều họa sĩ nay đã vượt ra khỏi lãnh thổ quốc gia. Một số khác do những hoàn cảnh đặt biệt mà đang sống ở nước ngoài, nhưng họ vẫn luôn trân trọng lưu giữ, phảng phất một nét gì rất Huế trong bút pháp của mình.
Để kỷ niệm 20 năm ngày Huế giải phóng, một phòng tranh của 48 họa sĩ, hội tụ gần đủ những gương mặt tiêu biểu hội họa Huế hôm nay. Họ thuộc nhiều thế hệ khác nhau (cả tuổi đời lẫn tuổi nghề). Thật cảm động khi có những họa sĩ đã ở tuổi gần bảy mươi vẫn có những sáng tác mới chẳng kém phần "bứt phá", nay triển lãm chung với những họa sĩ tuổi chưa tới 30. Điều ấy quả là sự khích lệ rất lớn cho lớp trẻ. Đa số các họa sĩ đều trưởng thành với Huế. Một số ít trước đây học ở Hà Nội, Sài Gòn. Có những người từng đi tu nghiệp ở một số nước Châu Âu như Vĩnh Phối, Trương Bé, Đỗ Kỳ Hoàng, Phan Thanh Bình... Có những người chỉ học qua sách vở, bạn bè mà nay đã thành danh, tranh của họ đã được bán nhiều trong nước và ra nước ngoài.
![]() |
“Tĩnh vật” - Bột màu của Đỗ Kỳ Hoàng |
Đây là một phòng tranh lớn nhất trong 20 năm qua ở Huế. 48 gương mặt tạo nên cái diện mạo nghệ thuật đa dạng về phong cách thể hiện với nhiều đề tài phong phú. Có những người mà cha và con, anh và em cùng tham gia triển lãm như Đỗ Kỳ Hoàng với hai con trai là Đỗ Kỳ Huy và Đỗ Kỳ Mẫn; Hải Bằng với con trai là Hải Trung; Vĩnh Phối cùng em gái là Tôn Nữ Tuyết Mai. Có những họa sĩ từng là chiến sĩ của Trung đoàn 101 oai hùng trong kháng chiến chống Pháp năm xưa như Trần Quốc Tiến, Hải Bằng. Một số nổi lên từ đầu thập niên 60 như Vĩnh Phối, Đỗ Kỳ Hoàng, một số khác được chú ý từ đầu thập niên 70 như Hoàng Đăng Nhuận, Trương Bé, Phan Hữu Lượng, Hồ Đắc Từ, Tôn Nữ Tuyết Mai, Đặng Mậu Tựu, Hà Văn Chước... Trong số này có nhiều người đã có từ một đến vài ba lần tham gia triển lãm tranh ở các nước Châu Âu, nhất là ở Pháp. Còn lại hết hai phần ba số họa sĩ là trưởng thành và khẳng định tên tuổi của mình từ sau 1975. Điều ấy để thấy hội hoạ Huế 20 năm qua đã được bổ sung một đội ngũ sáng tác khá hùng hậu. Họ được đào tạo lớp lang hơn, bài bản hơn nhiều họa sĩ đàn anh. Họ được tiếp nhận thông tin nhiều chiều về nghệ thuật hơn những người đi trước. Nhiều người sớm tỏ ra xông xáo và có bản lĩnh, có thể kể như Vũ Tấn Ba, Nguyễn Duy Linh, Phan Thanh Bình, Nguyễn Thị Mỹ, Trần Thanh Bình, Thân Văn Huy, Nguyễn Thái Hòa, Đỗ Kỳ Huy...
48 gương mặt, 108 bức tranh, nhiều vẻ đẹp, nhiều sắc diện, tạo nên một rừng hoa lạ, toàn bộ phòng tranh là sự thể hiện đa dạng về bút pháp, ít bị lặp lại, ít ai giống ai; nhưng nhìn chung nó toát ra một vẻ dịu dàng, đằm thắm, nền nã, cùng cả sự dữ dội, nồng nàn được tiềm tàng, ẩn chứa từ trong miền sâu lắng. Đó cũng là cái đẹp đặc trưng và rất "Huế".
Vĩnh Phối và Trương Bé vẫn trung thành với ánh sáng trừu tượng, Trương Bé với "Nhịp điệu xanh” và "Thiếu nữ đêm”; Vĩnh Phối với "Bố cục công nghiệp" và "Loài chim". Hai hoạ sĩ có một nét tương đồng là cách tiết chế màu sắc khá điềm tĩnh, trầm mặc, từ đó để thấy một nội lực sáng tạo rất mạnh mẽ. Điều chắc chắn là hai họa sĩ đã có nhiều năm nghiền ngẫm để chiêm nghiệm mình. Cũng trong lối thể hiện trừu tượng, Tôn Nữ Tuyết Mai với "Cô dâu", Hồ Sĩ Ngọc với "Ngày hội"; tranh của hai họa sĩ này lại dùng những màu sắc rực lửa, nhất là tranh của Tuyết Mai. Điều ấy làm người xem dễ nhận ra một sự nồng cháy dữ dội trong tâm hồn nữ họa sĩ này.
Cha con Đỗ Kỳ Hoàng vẫn phát huy thế mạnh của mình là tranh sơn mài. Đỗ Kỳ Hoàng với "Một ngày ở Nam Đông", là bức tranh rất hoành tráng, không gian khoáng đạt, bố cục gọn và dễ gây ấn tượng. Đỗ Kỳ Huy với "Đợi", Đỗ Kỳ Mẫn với "Phá Tam Giang" là sự tiếp nối những ưu điểm của cha và được nâng lên một bước mới. Xem ra, đường nét trong tranh của Đỗ Kỳ Huy có phần sắc sảo, tinh tế, tính ẩn dụ cao. Đó là điều đáng mừng cho thế hệ họa sĩ trẻ hôm nay.
Một số họa sĩ chủ yếu khai thác các chất liệu dân gian như Hà Văn Chước với "Hoa và quả", Hồng Trọng Mỹ với "Xuân thanh bình", Phan Chi với "Thiếu nữ tắm", Nguyễn Thái Hòa với "Mùa đông quê tôi"... Đây là những bức tranh đẹp, giản dị, gần gũi được với số đông người xem.
![]() |
"Phía trước" - sơn mài của Lê Quý Long |
Một số khác thiên về những đường nét truyền thống như Trần Thị Phương Hoa với "Trạm giao liên", Đỗ Kỳ Mẫn với "Phá Tam Giang", Lê Quý Long với "Khiêm lăng Tự Đức", Phạm Văn Lập với "Cổng phủ chiều hôm", Trần Quốc Tiến với "Thu hải đường", Đặng Mậu Tựu với "Hồi ức của mẹ". Tranh của họ dễ hiểu, dễ phân tích bởi cái thực, cái sống động của nó mang nặng tính biểu đạt, nhất là "Trạm giao liên" của Phương Hoa; "Thu hải đường" của Trần Quốc Tiến, "Cổng phủ chiều hôm" của Phạm Văn Lập lại đưa đến cho người xem một nỗi xao động, một cái buồn man mác.
Điều đáng nói, là một số họa sĩ thể hiện bằng những đường nét tương đối mềm mại và uyển chuyển, màu sắc lại dè dặt, hiền từ. Phải chăng đây là cái sự duyên dáng bề ngoài rất Huế. Có thể kể như Mai Châu với "Lưng phố", Nguyễn Thị Mỹ với “Bâng khuâng", Hải Bằng với "Mưa Huế", Nguyễn Hữu Ngô với "Tĩnh lặng", Phạm Thị Tuyết với "Dấu xưa"...
Người xem, nhất là khách nước ngoài đặc biệt chú ý đến tranh của Hoàng Đăng Nhuận và Nguyễn Duy Linh. Phải nói tranh của hai họa sĩ này có nhiều cái lạ. Hoàng Đăng Nhuận với "Sương hồng" và "Tĩnh vật phố và Mùa thu", rất thu hút cái nhìn bởi màu sắc, đường nét, cùng ý tưởng nghệ thuật khá gợi mở. Trên những hình thể gầy guộc vươn cao nhưng cứ lung linh, lấp loáng ở "Sương hồng", như những vì sao trên đỉnh gió lạnh. Người nghệ sĩ này đã thực sự cài hoa, rắc bướm lên hoa phẩm của mình, Nguyễn Duy Linh với "Niềm hạnh phúc" và "Gió xám" màu sắc chan hòa quá đẹp mắt. Điều bất ngờ ở "Niềm hạnh phúc" là bố cục tương đối lạ lẫm; nó đơn giản mà hàm súc được nhiều ý tưởng đẹp khiến người xem phải dừng lại khá lâu ở bức tranh này. Cám ơn Nguyễn Duy Linh đã cho người thưởng ngoạn một cảm giác thực sự yêu đời.
Hồ Đắc Từ với "Những dải sáng" và "Thăng hoa". Họa sĩ này dường như nặng về kỹ thuật. Tranh của anh với những đường nét sắc sảo đến lạnh lùng trong cái bố cục màu sắc u buồn. Bên cạnh đó, những bức tranh thủy mặc của Vũ Tấn Ba và Nguyễn Đình Mão lại mang nhiều chất thơ và mộng: nó cứ dìu dặt, nhè nhẹ, vẻ liễu yếu tơ đào của thiếu nữ.
![]() |
“Bến phố” - sơn dầu của Thân Văn Huy |
![]() |
“Phố mới” - sơn dầu của Trần Văn Mãng |
Phan Hữu Lượng với “Phù Đổng", một bức tranh mang nhiều tính biểu cảm. Thân Văn Huy cũng gây bất ngờ trong "Bến cũ"; anh tạo ra những mảng sáng, tối mờ ảo rất sang trọng. Phan Thanh Bình với "Bát bửu" cũng được nhiều người lưu tâm bởi cái ý tưởng kín đáo, cài đặt rất nhuần nhuyễn trong đường nét của anh. "Phố mới" của Trần Văn Mãng là sự chấm phá giản dị rất dễ thương. "Thuyền mùa xuân" của Trần Thanh Bình, "Giai điệu của biển" của Vũ Văn Thiên, "Đêm sông Hương" của Hải Trung. "Nghiêng nón đón trăng" của Tuấn Dương... đều là những bức tranh hồn nhiên, nó tải được nhiều nét đẹp thâm trầm, kín đáo của Huế.
48 họa sĩ chung một phòng tranh, mỗi người chỉ được vài ba bức, không gian trưng bày quả là chật hẹp. Điều ấy chưa thể nói hết được những tinh hoa của hội họa Huế hôm nay. Nhiều họa sĩ còn những bức tranh tâm đắc mà chưa trình làng đợt này. 108 bức, một con số khiêm tốn nhưng phần nào cũng phản ánh diện mạo của hội họa Huế. Phòng tranh này dù nhiều hay ít cũng đã đưa ra một phác thảo sơ bộ về tính dự báo của hội họa Huế khi bước sang thế kỷ 21. Các họa sĩ Huế sẽ vẫn đi từ hội họa phương Đông là chính, bên cạnh sự tiếp nhận có chọn lọc những ưu việt của hội họa phương Tây. Chất liệu dân gian cùng những yếu tố truyền thống được nâng lên bước cao hơn chắc chắn sẽ đóng vai trò chủ đạo trong sáng tạo của các họa sĩ Huế ở tương lai.
V.H
(TCSH76/06-1995)
NGUYỄN HỮU NGÔKhu nhà máy bên kia sông tràn đầy sức sống giữa một bầu trời êm ả. Những bông cỏ chen nhau vươn lên… và bỗng nhiên một cánh chuồn chuồn đỏ thắm đáp xuống - một chi tiết thật bất ngờ và thú vị. Toàn thể bức tranh tỏa ra ánh dịu dàng của một buổi sáng mùa xuân.
ĐẶNG MẬU TỰUKhi được Hội Mỹ Thuật Việt Nam phân bố cho miền Trung một suất đi thực tế Trường Sa, Họa sĩ Lê Văn Nhường là một điểm trong tầm ngắm để được giới thiệu đi trong chuyến hải hành này. Trường Sa là một trong những mục tiêu mà Hội Mỹ thuật quan tâm trong cuộc vận động sáng tác về biển đảo trong năm 2010 - là điểm nóng vì là tiền tiêu của Tổ quốc. Ai cũng mong có một lần được đi đến đó.
THANH TÙNGVào những ngày cuối tháng 7-2010 Đinh Cường từ Mỹ về và Phan Ngọc Minh từ Đà Nẵng ra tổ chức một cuộc triển lãm tranh ở gallery Chiêu Ê - số 89 Minh Mạng, thành phố Huế - nhà riêng của hoạ sĩ Hoàng Đăng Nhuận.
TRẦN THANH BÌNHCách đây đúng 9 năm, có một họa sĩ xứ Huế đã lang thang gần 2 tháng trời trên những góc phố cổ kính Hà Nội để "chiêm nghiệm", đó là Lê Quý Long.
LÊ QUÝ LONGMùa xuân năm ấy, vào dịp Tết, chợt nhớ đến người bạn đồng nghiệp ở cách thành phố hơn hai kilômét về phía tây dọc theo dòng sông Hương. Anh ở gần chợ Long Thọ, bên trái là con đường đi đến sân Hổ Quyền.
SĨ THIỆNTrại sáng tác điêu khắc Quốc tế lần 2 được tổ chức tại Huế đã kết thúc được 3 tháng. Bằng sự lao động sáng tạo, bất chấp cái "mưa thúi đất thúi trời", 14 nhà điêu khắc Việt Nam là 16 nhà điêu khắc đến từ châu Mỹ, châu Âu, châu Á đã để lại cho Huế 30 bức tượng, một món quà vô giá và vĩnh hằng.
NGÔ MINHTôi quen biết họa sĩ Đặng Mậu Tựu từ những ngày gửi con trai đi học lớp hội họa ở Nhà Thiếu nhi Huế. Những ngày đó thiếu nhi đến học vẽ đông lắm. Có lớp buổi sáng, buổi chiều, lại có lớp ban đêm. Lớp nào cũng có mặt thầy Đặng Mậu Tựu có mái tóc bồng bềnh như sóng Quy Nhơn, mặt mày hốc hác vì thiếu ngủ và thiếu dinh dưỡng, cặm cụi dạy các cháu cách cầm cọ, pha màu, phác thảo tranh. Rồi thầy Tựu dắt các em đi chơi Bạch Mã, Lăng Cô... để tìm cảm hứng vẽ.
LGT: Sau hơn năm tháng bị tai biến, họa sĩ Hoàng Đăng Nhuận đang dần hồi phục trở lại. Ý thức sống là sáng tạo đã thôi thúc người họa sĩ. Và như vậy toile đã căng lại trên khung, màu cũng đã sẵn sàng.A. Camus trong một cơn bệnh đã chiêm nghiệm “Bệnh tật là một dòng tu kín”. Hy vọng rằng trong ngọn lửa sáng tạo nhen lên lần này, tranh Hoàng Đăng Nhuận có thêm nhiều chiêm nghiệm mới trong dòng tu kín của mình.S.H
ĐẶNG MẬU TỰU... Về quê, về quê, ai cũng có ít ra một lần về quê.Về cái nơi chôn nhau cắt rốn ấy, dù giàu nghèo đến đâu thì mảnh đất ấy cũng rất thiêng và rất riêng với mình.
NGUYỄN NGUYÊN ANTừ những thập niên sáu mươi đến tám mươi của thế kỷ trước, trong làng vẽ Huế, họa sĩ Lê Vinh - một cây cọ cinéma nổi lên như hiện tượng. Tưởng rằng, ông chuyên vẽ tranh quảng cáo, pano, nhưng không, ông có 20 bức vẽ còn lưu giữ trong Bệnh viện Trung ương Huế từ năm 1970 và là người vẽ tranh Bác Hồ to lớn nhất Việt Nam trong thời điểm 1975.
HẠNH NHIĐó là tên sê-ri tranh sơn mài của họa sĩ Đinh Khắc Thịnh - người được biết đến nhiều với các tác phẩm mỹ thuật sắp đặt trong các Festival nghề thủ công truyền thống và các Festival Huế.
PHAN THANH BÌNH-KHÁNH TRANGNăm nay triển lãm mỹ thuật Bắc Miền Trung lần thứ VIII được tổ chức tại Thanh Hoá, vùng đất địa đầu của khu vực miền Trung. Triển lãm trưng bày 116 tác phẩm của 46 tác giả là hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam và 51 tác giả hội viên Hội VHNT các địa phương. Hội đồng nghệ thuật đã loại 19 tranh vi phạm quy chế về thời gian sáng tác, kích thước (TT-Huế có 3 tranh) và đặc biệt trong đó có 9 tranh bị loại vì chất lượng nghệ thuật kém.
PHAN THANH BÌNHHình bóng người phụ nữ xứ Huế từ lâu đã được khắc sâu trong nghệ thuật hội họa với bao tác phẩm, dáng hình và tình cảm sâu nặng, với những vẻ đẹp chiều sâu hài hòa, rung cảm, xao động lòng người. Những tác phẩm ấy đã có ý nghĩa lịch sử lớn lao trong việc khẳng định và làm sáng tỏ hơn những giá trị tinh thần, phẩm chất của con người Huế nói chung và của người phụ nữ Huế nói riêng.
Đầu năm 1997, khi mới chuyển về công tác tại Đài Truyền hình Huế, tôi có ý định làm một phim tài liệu nghệ thuật về hoạ sĩ Bửu Chỉ. Sau nhiều lần từ chối, họa sĩ Bửu Chỉ đã đồng ý giúp tôi việc này. Ngày 25-2-97, tôi gửi anh 7 câu hỏi nhằm có thêm tư liệu để lên đề cương kịch bản phim. Hơn 20 ngày sau, anh chuyển cho tôi một thếp giấy vở học trò gồm 13 tờ do tự tay anh viết xong, đề ngày 16-3-1997. Vì nhiều lý do, phim chưa làm được, tôi gửi trả anh các tư liệu đã mượn, riêng bài trả lời phỏng vấn, anh nói tôi hãy giữ làm kỷ niệm về một dự định bất thành.Với tất cả tấm lòng thương quý và kính mến một người Anh, xin được giới thiệu bài trả lời phỏng vấn của Anh mà tôi xem như là những trang di cảo về CUỘC ĐỜI VÀ NGHỆ THUẬT. ĐẠI DƯƠNG
ĐẶNG MẬU TỰUGiới họa sĩ xem Bửu Chỉ là một người đặc biệt không chỉ vì tính khí hoặc bởi từ một người học và tốt nghiệp ngành luật nhưng lại tự học vẽ, có tác phẩm từ lúc học Luật rồi trở thành họa sĩ thực thụ, chết sống với nghề, mà vì tác phẩm của anh có một sắc thái riêng, anh đã tạo cho mình một cõi riêng trong nền nghệ thuật đương đại.
NGUYỄN TRỌNG TẠOMột ngày cuối năm Con Khỉ, tôi ghé vào Gallery Minh Châu số 7 Lý Đạo Thành, Hà Nội, không phải để chiêm ngưỡng tranh của các bậc thầy hội hoạ Nguyễn Phan Chánh, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng... vẫn thường được bày bán ở đây, hay để thăm cô chủ nhỏ Minh Châu quen thân từ trong Huế như mọi lần, mà để xem tranh của mẹ cô vừa mang từ Huế ra trình làng với giới hâm mộ hội hoạ đất Hà Thành.
PV: Ảnh hưởng nào đã cho hoạ sỹ về một thế giới quan có tên gọi là: "Không gian Lê Bá Đảng"? Lê Bá Đảng (L.B.Đ): Không gian của tôi là tạo hoá thiên nhiên hài hoà trong tác phẩm. Không có cô đứng, cô ngồi, cô uỷ lụy, cô say, cô tỉnh, cô chiêm bao; không nhìn thẳng như mọi người mà nhìn từ nhiều góc độ.
PHÚC VINHSau một thời gian dài lang bạt giang hồ, tết này, họa sĩ Hoàng Đăng Nhuận quyết định trở về Galery Chiêu Ê, nơi ông đã gắn bó một thời trai trẻ, trú mình trong căn họa thất xinh xắn vừa xây dựng.
TRẦN KIÊM ĐOÀNLàm nghệ thuật ở xứ nghèo là một “thiện nghiệp gian nan”! Thiện nghiệp vì làm cho đời vui. Gian nan vì phải sống đời áo cơm vất vả.
TRẦN HẠ THÁP Với gần bốn mươi bức tranh trong cuộc triển lãm ở số 4 Hoàng Hoa Thám - Huế khai mạc vào 11 tháng 10 năm 2008, Võ Xuân Huy đã đặt người thưởng ngoạn trước một công trình tổng hợp từ 3 phạm trù sơn mài độc đáo. Sự nối kết truyền thống vào hiện đại này mang tầm vóc đặt để một nguyên lý, xứng đáng để giới bình luận lưu tâm và ghi nhận lâu dài.