Phòng trà ca nhạc Sài Gòn xưa: Những nàng ca sĩ tên Phương

08:57 01/11/2016

“Lò” Việt Nhi của nhạc sĩ Nguyễn Đức đã đào tạo nhiều nữ ca sĩ cho phòng trà Sài Gòn lúc ấy. Đặc biệt, như để tạo dấu ấn, tên của các nữ ca sĩ ấy đều bắt đầu bằng chữ Phương (chỉ trừ nữ ca sĩ Hoàng Oanh).

Từ trái qua: Ca sĩ Phương Hoài Tâm, Phương Hồng Hạnh, Phương Hồng Ngọc, Phương Hồng Quế. Ảnh: T.L

Phương Hồng Ngọc - Bé út của Việt Nhi

Cô tên thật là Nguyễn Thị Cẩm Hồng, dân Cần Thơ. Ông thân sinh của nữ ca sĩ này mang trong người mang 3 dòng máu: Việt, Hoa và Pháp. Từ nhỏ Cẩm Hồng đã ham mê văn nghệ, tập ca hát với năng khiếu trời cho. Rồi lên Sài Gòn, cô tham gia vào lò của nhạc sĩ Nguyễn Đức từ năm 12 tuổi.

Phương Hồng Ngọc là người nhỏ tuổi nhất trong ban Việt Nhi. Không những vậy, cô còn là thành viên của ban hợp ca Sao Băng nữ (để phân biệt với Sao Băng nam) cũng do Nguyễn Đức thành lập gồm Phương Hoài Tâm, Phương Hồng Hạnh, Phương Hồng Quế, Phương Hồng Ngọc, Phương Minh Châu, Phương Hồng Loan (vợ đạo diễn điện ảnh Lê Hoàng Hoa), Kim Anh (vợ nghệ sĩ cải lương Thành Được)...

Lúc hát trong lò Việt Nhi trên đài phát thanh, bài tủ của Cẩm Hồng là Em bé quê nhưng đến với phòng trà, Phương Hồng Ngọc thích nhất bài Nước mắt mùa thu của nhạc sĩ Phạm
Duy. Phương Hồng Ngọc dù chỉ mới làm quen với không khí phòng trà từ đầu năm 1971 (năm 17 tuổi) nhưng rất dạn dĩ và khá già dặn kỹ thuật. Mỗi đêm cô phải chạy show đến bốn phòng trà. Ngoài ca hát, Phương Hồng Ngọc còn tham gia vào bộ phim Chiều kỷ niệm vì có gương mặt hao hao với Thẩm Thúy Hằng lúc nhỏ.

Một thời gian sau, Phương Hồng Ngọc trở thành vợ của kịch sĩ Ngọc Đức và có với nhau hai người con. Nhưng sau khi sang Mỹ định cư, hai nghệ sĩ này đã chia tay trong êm thắm.

Phương Hoài Tâm - Sơn ca vui hát

Cô gái mang tên Phương Tâm đến với ca hát thật tình cờ. Rất nhút nhát và sợ đám đông nên từ nhỏ cô không tỏ vẻ gì tha thiết với ca hát. Lúc nhỏ cô học đàn mandolin với nhạc sĩ Tùng Phương. Lúc ấy, nhạc sĩ Nguyễn Đức vẫn thường đến nhà bố mẹ Tùng Phương chơi, gặp Tâm và đề nghị “nữ ca sĩ con” này vào hát với ban Việt Nhi của ông.

Tên Phương Hoài Tâm của cô được chính thức ra đời từ khi nhạc sĩ Châu Kỳ giao cho cô trình bày nhạc phẩm Sao chưa thấy hồi âm của ông khi cô được 16, 17 tuổi. Phương Hoài Tâm là một gương mặt đẹp của làng ca sĩ, giống như một cô nữ sinh bẽn lẽn, tươi tắn và dịu mát. Cô được xem như một con sơn ca líu lo những điệu nhạc vui cho đời.
Năm 1969, Phương Hoài Tâm bắt đầu bước lên bục gỗ phòng trà, tuy nhiên không hát cố định cho phòng trà nào. Và sau đó, cô bắt đầu hát nhiều trên đài phát thanh và xuất hiện trên truyền hình trong những chương trình của các nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương, Châu Kỳ, Trần Thiện Thanh, ngoài một chương trình riêng của mình là Sơn Ca. Thêm vào đó, Phương Hoài Tâm còn có mặt trong các chương trình đại nhạc hội của Duy Ngọc, Châu Kỳ... và được biết đến với một số nhạc phẩm như Sơn nữ ca, Đò chiều, Thiên thai (song ca với Hoàng Oanh)...

Phương Hồng Hạnh trong tà áo dài

Cô ca sĩ tên thật là Dương Thị Hạnh, có một đôi mắt to, tròn ngơ ngác trên gương mặt có hai đôi má bầu bĩnh. Cô có thân hình mảnh mai như dáng vẻ của một cô học trò, thế mà mỗi đêm Phương Hồng Hạnh phải chạy show cho bốn nhà hàng lớn: Đêm Màu Hồng, Tự Do, Maxim’s, Queen Bee, cho thấy cô cũng là một giọng ca được ưu ái.

Hạnh sinh tại Hà Nội vào năm 1951. Khi vào nam, năm 1962, Hạnh xin gia nhập vào lò của nhạc sĩ Nguyễn Đức, đến năm 1965 thì hát ở các đại nhạc hội và chương trình truyền hình. Khoảng thời gian của những năm cuối thập niên 1960, trên truyền hình, người mê nhạc thường được xem một cô ca sĩ hát giọng bắc nhỏ nhẹ, luôn mặc áo dài trắng nữ sinh. Năm 1970, Phương Hồng Hạnh mới bắt đầu bước vào thế giới phòng trà và vẫn lên bục, ra mắt khán giả trong những chiếc áo dài tha thướt, rất phù hợp với những bản nhạc của Đoàn Chuẩn - Từ Linh mà nàng hay hát.

Phương Hồng Quế - “Ti vi chi bảo”

Báo chí thời ấy thường gọi Phương Hồng Quế bằng biệt danh mỹ miều như: “Ti vi chi bảo” vì ngoài việc hát ở phòng trà Hội quán nghệ sĩ (Vũ Duy thực hiện) và phòng trà Nam Đô (Bảo Thu), nàng cũng thường xuyên xuất hiện trên ti vi.

Xuất môn cùng thời với các nàng Phương, Hồng Quế có lối ăn diện rất Tây song nét mặt cô lại ngây thơ, tạo cho Quế một vẻ “đàn bà trẻ con” đáng yêu. Quế thích hát những bài tình ca của Trường Sa và Văn Phụng. Phương Hồng Quế thành danh với bài Phố đêm khi chưa tròn 20 tuổi bằng một dịp may khi nhạc sĩ Tâm Anh vừa có nhạc phẩm này đang muốn các cô ca sĩ họ Phương trình bày trên sóng phát thanh và truyền hình ở Sài Gòn. Sau đó, Phương Hồng Quế còn trình bày thành công nhạc phẩm Chuyện tình không suy tư cũng do Tâm Anh sáng tác.

Mặc dầu vậy nàng cũng phải rất suy tư khi dính vào xì căng đan chuyện tình với ca sĩ Thanh Phong (ban Sao Băng cùng với Duy Mỹ, Phương Đại) là người đang đùm đề vợ con. Có lần, không biết đùa hay thật. Thanh Phong đã hăm dọa Phương Hồng Quế rằng sẽ bắn nàng nếu nàng phụ rẫy.

Theo Lê Văn Nghĩa - TNO

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HỒ DZẾNH
             Hồi ký

    Mai sau dù có bao giờ
    Đốt lò hương ấy, so tơ phím này

                                 NGUYỄN DU

  • LÝ HOÀI THU

    Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.

  • PHẠM THỊ CÚC

    (Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)

  • Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.

  • CAO THỊ QUẾ HƯƠNG

    Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.

  • THÁI KIM LAN

    Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.

  • Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?

  • Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.

  • Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập  thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.

  • NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN

    (Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)

  • BÙI KIM CHI

    Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…

  • LÊ MINH
    Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)

    … Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LAN

    Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.

  • (SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.

  • NGUYỄN CƯƠNG

    Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.

  • PHẠM HỮU THU

    Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
    Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
    Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.

  • TRẦN NGUYÊN

    Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.

  • PHẠM HỮU THU
           Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12

    “Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).