Phản ánh và sáng tạo

16:05 28/10/2024
(Suy nghĩ và nhận xét về phần lý luận trong sách giáo khoa văn học lớp 12)

Phần lý luận do giáo sư Lê Ngọc Trà viết cho đối tượng là học sinh Trung học phổ thông. Nội dung và lối viết tránh được kinh viện, dễ hiểu, gọn, thiết thực. Giáo trình lý luận văn học đã xuất bản ở nước ta thường dài ngót ngàn trang, ở đây chỉ rút gọn trong vòng 30 trang. Trong bài phát biểu này nếu đề nghị thêm bớt thì nói mấy cũng không vừa. Tôi xin góp ý chủ yếu về luận điểm đã gây tranh luận cho rằng "trên bình diện lý luận... văn học không phản ánh hiện thực mà là sự nghiền ngẫm hiện thực..." Luận điểm này đã được phản ánh trong giáo trình như sau: "Trong tác phẩm, người viết thường kể những câu chuyện hoặc tả một cảnh vật nào đó. Chúng ta vẫn gọi đây là "phản ánh hiện thực" hoặc "ghi chép về đời sống". Thực ra nói cho chính xác, đó không phải là nhà văn phản ánh hiện thực mà là thể hiện cái nhìn và sự cảm nhận của mình về hiện thực. Những con người, sự kiện, cảnh vật được mô tả trong tác phẩm văn học là những ấn tượng của tác giả - về cuộc sống, những điều mà người viết trông thấy hoặc biết được trong đời."

Tôi đề nghị nên viết: “Nhà văn không đơn thuần phản ánh hiện thực...”. “... những con người, sự kiện, cảnh vật được mô tả trong tác phẩm văn học đồng thời là những ấn tượng của tác giả về cuộc sống...”. Thêm các chữ "đơn thuần", "đồng thời" thì sẽ tránh được ngộ nhận, nhất là đối với học sinh.

Khái quát lại, vấn đề trên đây liên quan chặt chẽ với đặc trưng cơ bản của văn học là "phản ảnh và sáng tạo". Xin phát biểu kỹ hơn về vấn đề này mà tôi nghĩ là liên quan mật thiết với cuộc tranh luận chung quanh cuốn Văn học lý luận của giáo sư Lê Ngọc Trà.

Nếu chỉ đơn thuần là phản ảnh, thì khoa học, các hình thái ý thức đều phản ánh. Vậy còn đâu là sự cần thiết là lý do tồn tại của văn học nghệ thuật? Văn học phản ánh những đặc trưng khu biệt nó với khoa học, với các hình thái ý thức khác là ở chỗ văn học phản ánh bằng sáng tạo và sáng tạo là để phản ánh. Những nhà bác học vĩ đại, tên tuổi lưu lại muôn đời, đều là những nhà sáng tạo, những trí tuệ vĩ đại của thế kỷ. Thế nhưng nói cho chính xác thì họ chẳng trực tiếp sáng tạo ra cái gì cả. Không ai sáng tạo ra quy luật - quy luật tự nhiên, quy luật xã hội tồn tại một cách khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người. Sáng tạo vĩ đại của các nhà bác học chỉ là ở chỗ tìm ra, phát hiện ra quy luật. Không có họ thì quy luật vẫn tồn tại, không có Niutơn thì vạn vật vẫn hấp dẫn nhau, trái đất không đợi có Galilê mới tròn, mới quay. Kỹ sư, nhà sản xuất sáng tạo nhưng đó là sáng tạo hàng loạt và cũng không nhằm phản ảnh gì hết.

Nhưng đối với văn học nghệ thuật thì hoàn toàn không phải như vậy. Không có Lép Tôlxtôi thì không có Chiến tranh và hòa bình mặc dầu cuộc chiến tranh vệ quốc của nhân dân Nga chống lại Napoléon là sự kiện lịch sử ghi bằng chữ vàng trong lịch sử nước Nga v.v...

Nói một cách giản lược, có thể tóm thu bản chất, đặc trưng của văn học nghệ thuật bằng công thức: phản ảnh - sáng tạo: phản ánh bằng sáng tạo, sáng tạo để phản ảnh, quá trình sáng tạo là quá trình thống nhất mâu thuẫn giữa phản ánh và sáng tạo, chúng không phải là hai khâu tách bạch hay nối tiếp nhau, mà xuyên thấu và chuyển hóa vào nhau. Trên lý luận cũng như trên thực tiễn phê bình, nếu quên mất hay xem nhẹ biện chứng này của sự sáng tạo thì sẽ không tránh khỏi thất bại. Tác phẩm văn học đã phản ánh có sâu có rộng bao nhiêu cũng không là thừa so với đời sống muôn màu muôn vẻ, vận động phát triển không ngừng. Nhưng cái gọi là phản ánh đó sẽ trượt ra khỏi quỹ đạo của văn học nghệ thuật, sẽ không đưa đến đâu, nếu không đi đôi với sáng tạo, nếu không bằng con đường sáng tạo. Điều này có nghĩa là dù đề tài, dù chủ đề có bám chặt lấy đời sống bao nhiêu, mà tác phẩm viết dở, nông cạn, chung chung - nghĩa là thiếu sáng tạo - thì cái gọi là phản ánh đó chẳng qua cũng chỉ là lâu đài xây trên cát. Không đạt tới tính nghệ thuật, tính thống nhất giữa nội dung và hình thức, thì cái gọi là nội dung hiện thực, nội dung tư tưởng cũng chỉ đáng ghi nhận về mặt ý đồ, thiện chí của tác giả mà thôi.

Ngược lại sáng tạo có tài tình đến mấy cũng không bao giờ thừa, có bao nhiêu cá tính sáng tạo cũng không thể coi là đủ, so với sức sáng tạo của bản thân thiên tài - đời sống. Nhưng nếu tác phẩm đó lại xa lạ với đời sống, nội dung nghèo nàn, trống rỗng, thì cũng không có giá trị nào khác ngoài giá trị hình thức, chẳng qua cũng là một thứ bông hoa điếc, vô sinh, giữa sự sinh sôi nảy nở vô cùng vô tận của muôn loài.

Chỉ có ai dở hơi mới chê một tác phẩm nào đó là "phản ánh" quá nhiều. Nhưng sẽ không dở hơi chút nào nếu sự phản ánh này không vượt qua lối chụp ảnh theo đuôi đời sống, chạy theo sự kiện một cách tự nhiên chủ nghĩa. Cũng chỉ có ai dở hơi mới chê một tác phẩm nào đó là quá nhiều "nghiền ngẫm" về đời sống, quá nhiều sáng tạo! Nhưng sẽ không dở hơi chút nào nếu cái gọi là nghiền ngẫm, sáng tạo đó chẳng qua cũng chỉ là lối thuyết lý, suy tư trừu tượng hay lối bịa đặt tùy tiện, ở cả hai trường hợp, biện chứng phản ánh - sáng tạo đã bị phá vỡ, không thể đưa lại giá trị văn học. Bêlinxky gọi nhân vật điển hình là "người xa lạ quen biết". Quen biết, gần gũi nhờ được phản ánh một cách chân thực, xa lạ vì không phải bê nguyên xi mà trải qua sáng tạo, tập trung, nâng cao, nhào nặn lại, vừa giống như trong đời sống vừa không phải là bản thân đời sống.

Ngoài ra, xin nêu thêm vài trường hợp cụ thể:

I. VỀ PHẦN LÝ LUẬN LỚP MƯỜI:

- Có nên để thơ trước truyện không? Thơ xuất hiện trước truyện nhất là ở Việt Nam thơ nổi bật so với truyện.

- Truyện thơ nên để trước truyện vừa, truyện vừa thuộc phạm trù hiện đại, ở Việt Nam xuất hiện sau truyện thơ.

- Đặc điểm của truyện thơ bác học ngoài đặc điểm là nguồn gốc Trung Quốc, nên thêm: tính chất giáo huấn lộ liễu.

- Truyện ngắn được tác giả coi là “khách quan hơn trong truyện cổ tích”. Thực ra cổ tích thuộc phạm trù văn học dân gian, truyện ngắn thuộc phạm trù văn học hiện đại, khác nhau không chỉ khách quan nhiều ít, mà về chất, về thi pháp.

II. VỀ PHẦN LÝ LUẬN LỚP 11:

- Trong bài, không đề cập đến nhân vật trữ tình, nhưng trong phần ôn tập cuối năm lại có câu hỏi: “Cần tìm hiểu trữ tình, chủ thể trữ tình, nhân vật trữ tình”.

- Tác giả coi tất cả thơ mới đều là thơ tự do, có lẽ tự do so với thơ cũ, còn không phải tất cả thơ mới đều tự do. Tự do chỉ nên áp dụng với thơ hợp thể.

- Ngoài thể thơ hai chữ, tám chữ, nên thêm thơ hợp thể rất nhiều trong thơ mới.

- Cách phân bố cục của thơ thất ngôn làm khai thừa thực luận - kết thực ra rất tương đối, nên bỏ để khỏi làm rối trí học sinh. Thơ cổ điển cũng tỏ ra không chặt chẽ, rạch ròi lắm trong vấn đề này.

III. VỀ PHẦN LÝ LUẬN LỚP 12:

- Sách nói: “Phong cách thể hiện trong toàn bộ các yếu tố hình thức nghệ thuật của tác phẩm” đề nghị nên thay bằng "trong toàn bộ thế giới nghệ thuật".

- Sách nói: "Hư cấu nói ở đây không phải là khả năng tưởng tượng phong phú hay nghèo nàn của nghệ sĩ mà chủ yếu là vấn đề tính y như thật hay không thật của các tình huống, các sự việc, câu chuyện trong tác phẩm văn học, hình như có sự lẫn lộn vấn đề hư cấu là gì và vấn đề chất lượng của hư cấu.

- Sách viết: “Trào lưu lãng mạn 30 - 45 là kết quả của việc cách tân hình thức thơ ca nhằm diễn tả tâm trạng lãng mạn...”. Nói thế không chính xác, chủ nghĩa lãng mạn không thể là kết quả của bản thân nó, mà là kết quả của những thay đổi trong xã hội lúc bấy giờ. Cách tân hình thức là một trong nhiều đặc điểm của chủ nghĩa lãng mạn.

L.Đ.K
(TCSH59/01-1994)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Tin nổi bật
  • TRẦN KIÊM ĐOÀNMấy tháng trước ngày cơn đại sóng thần - grand tsunami - vỡ trào quét vào vùng biển Ấn Độ vào năm 2004, tàn phá vùng duyên hải của 12 nước ven biển và giết hại 230 nghìn mạng sống, người ta chú ý đến hiện tượng thiên di của các loài động vật.

  • NGUYỄN QUÂNLà một người vẽ mà lại yêu thơ, khi đọc liên tưởng của tôi trước hết là liên tưởng của con mắt. Cái chúng ta quen gọi là hình ảnh, hình tượng thơ … với tôi trước hết là cái có thể nhìn thấy trong đầu, khi đọc thơ.

  • LÊ QUANG THÁIVăn khảo luận ít khi viết năm Mão như văn nói thông thường, chỉ vì chưa định rõ năm nào trong các năm: Ất Mão, Đinh Mão, Kỷ Mão, Tân Mão, Quý Mão. Cho nên, không thể dịch ra tiếng Anh: “Year of the cat” một cách vô tư lự được. Viết quảng cáo lớn chữ “Xuân Tân Mão, 2011” mà lại dịch một cách tùy tiện như trên hẳn là chưa ổn.

  • NGUYỄN DƯ…Bốn cột lang, nha cắm để chồng/ Ả thì đánh cái, ả còn ngong/ Tế hậu thổ khom khom cật,/ Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng/ Tám bức quần hồng bay phới phới,/ Hai hàng chân ngọc đứng song song./ Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,/ Cột nhổ đem về để lỗ không.                                 (Cây đánh đu, Hồng Đức quốc âm thi tập)…

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGTôi mới đọc Xuân Quỳnh gần đây: với tôi, thơ chị ở quá xa. Nhưng càng đọc càng gần lại. Vì chị thường nói về thời gian: Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế/ Chỉ em là đã khác với em xưa

  • LƯƠNG ANMiên Thẩm là một nhà thơ hoàng tộc có tiếng giữa thế kỷ 19. Qua thơ văn ông, chúng ta gặp một con người, tuy bị giai cấp xuất thân hạn chế rất nhiều, song vẫn biểu hiện một ý thức thương dân và một tinh thần lo lắng cho vận mệnh đất nước vốn không phải phổ biến trong tầng lớp nhà nho - trí thức phong kiến lúc bấy giờ.

  • PHONG LÊGiá Bác không đi Trung Quốc? Hoặc giá Bác không bị bọn Tưởng bắt giam? Hoặc nữa, đã có tập thơ, nhưng năm tháng, chiến tranh, cùng bao nhiêu sự cố khiến cho tập thơ không còn về được Viện bảo tàng cách mạng?

  • L.T.S: Bài viết của Trần Đình Sử về đóng góp của thơ Tố Hữu trong việc phát triển thể tài thơ chính trị và khuynh hướng sử thi trong biểu hiện không phải không có nhiều chỗ phải bàn cãi. Tuy nhiên tạp chí vẫn coi đây là một cách tiếp cận mới để khám phá nguồn thơ phong phú của một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Xin giới thiệu bài tiểu luận này để bạn đọc cùng suy nghĩ trao đổi.

  • ĐÔNG HÀVăn chương bắt nguồn từ cuộc sống. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng vậy, mỗi trang viết của anh là một sự khởi nguyên rất chân thật. Không thiên về lối miêu tả nhưng bằng cặp mắt tinh tế sắc sảo của mình, Hoàng Phủ đã “nói” về cuộc sống từ những tinh chất của thiên nhiên và con người Huế đọng lại dưới ngòi bút của anh.

  • VÊ-RA CU-TÊ-SƠ-CHI-CÔ-VAVê-ra Cu-tê-sơ-chi-cô-va là tiến sĩ ngữ văn, giáo sư nghiên cứu ở Học viện Gorki về văn học thế giới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.

  • NGUYỄN HOÀN Nhạc Trịnh Công Sơn lâu nay đã “chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà ở cả bên ngoài biên giới nữa” (Văn Cao).

  • PHAN NGỌC1- Trong việc nghiên cứu Truyện Kiều, xu hướng xưa nay là đưa ra những nhận xét căn cứ vào cảm thụ thẩm mỹ của mình. Những nhận xét ấy thường là rất tinh tế, hấp dẫn. Nhưng vì quan điểm khảo sát là chỉ phân tích những cảm nghĩ của mình căn cứ đơn thuần vào Truyện Kiều, không áp dụng những thao tác làm việc của khoa học hiện đại, cho nên không tránh khỏi hai nhược điểm:

  • ĐẶNG TIẾNMèo là thành phần của tạo vật, không hệ thuộc loài người, không phải là sở hữu địa phương. Nói Mèo Huế là chuyện vui ngày Tết. Đất Huế, người Huế, tiếng Huế có bản sắc, biết đâu mèo Huế chẳng thừa hưởng ít nhiều phẩm chất của thổ ngơi và gia chủ?

  • TRIỀU NGUYÊNCó nhiều cách phân loại câu đối, thường gặp là ba cách: dựa vào số tiếng và lối đặt câu, dựa vào mục đích sử dụng, và dựa vào phương thức, đặc điểm nghệ thuật. Dựa vào số tiếng và lối đặt câu, câu đối được chia làm ba loại: câu tiểu đối, câu đối thơ, và câu đối phú. Bài viết ngắn này chỉ trình bày một số câu đối thuộc loại câu tiểu đối.

  • KHÁNH PHƯƠNGNăm 2010 khép lại một thập kỷ văn học mang theo những kỳ vọng hơi bị… “lãng mạn”, về biến chuyển và tác phẩm lớn. Nhiều giải thưởng của nhiều cuộc thi kéo dài một vài năm đã có chủ, các giải thưởng thường niên cũng đã… thường như giải thưởng, nhà văn và bạn đọc thân thiết hồ hởi mãn nguyện tái ngộ nhau trên những đầu sách in ra đều đặn… và người thực sự quan tâm đến khía cạnh nghề nghiệp trong đời sống văn chương lại tự hỏi, những sự kiện đang được hoạt náo kia có mang theo trong nó thông tin gì đích thực về thể trạng nghề viết hay không? Nếu có, thì nó là hiện trạng gì? Nếu ngược lại, thì phải tìm và biết những thông tin căn bản ấy ở đâu?

  • MIÊN DIVẫn biết, định nghĩa cái đẹp cũng giống như lấy rổ rá... múc nước. Vì phải qui chiếu từ nhiều yếu tố: góc nhìn, văn hóa, thị hiếu, vùng miền, phong tục... Tiểu luận be bé này xin liều mạng đi tìm cái chung cho tất cả những góc qui chiếu đó.

  • INRASARA1. Điểm lại mười căn bệnh phê bình hôm nay

  • XUÂN NGUYÊNHơn ở đâu hết, thơ mang rất rõ dấu ấn của người làm ra nó. Dấu ấn đó có thể là do kinh nghiệm sống, do lối suy nghĩ… đưa lại. Đứng về mặt nghệ thuật mà nói, dấu ấn trong thơ có thể được tạo nên bởi lối diễn đạt, bởi mức độ vận dụng các truyền thống nghệ thuật của thơ ca.

  • Linda Lê, nhà văn nữ, mẹ Pháp cha Việt, sinh năm 1963 tại Đà Lạt, hiện đang sống tại Paris, viết văn, viết báo bằng tiếng Pháp. Một số tác phẩm của nhà văn đã được dịch sang tiếng Việt và xuất bản tại Việt Nam như là: Vu khống (Calomnies), Lại chơi với lửa (Autres jeux avec le feu). Chị đã có buổi nói chuyện tại Trung tâm Văn hóa Pháp tại Huế vào ngày 15.10.2010 vừa rồi. Sau khi trao đổi về bản dịch, chị đã đồng ý cho phép đăng nguyên văn bài nói chuyện này ở Tạp chí Sông Hương theo như gợi ý của dịch giả Lê Đức Quang.