Phần lý luận do giáo sư Lê Ngọc Trà viết cho đối tượng là học sinh Trung học phổ thông. Nội dung và lối viết tránh được kinh viện, dễ hiểu, gọn, thiết thực. Giáo trình lý luận văn học đã xuất bản ở nước ta thường dài ngót ngàn trang, ở đây chỉ rút gọn trong vòng 30 trang. Trong bài phát biểu này nếu đề nghị thêm bớt thì nói mấy cũng không vừa. Tôi xin góp ý chủ yếu về luận điểm đã gây tranh luận cho rằng "trên bình diện lý luận... văn học không phản ánh hiện thực mà là sự nghiền ngẫm hiện thực..." Luận điểm này đã được phản ánh trong giáo trình như sau: "Trong tác phẩm, người viết thường kể những câu chuyện hoặc tả một cảnh vật nào đó. Chúng ta vẫn gọi đây là "phản ánh hiện thực" hoặc "ghi chép về đời sống". Thực ra nói cho chính xác, đó không phải là nhà văn phản ánh hiện thực mà là thể hiện cái nhìn và sự cảm nhận của mình về hiện thực. Những con người, sự kiện, cảnh vật được mô tả trong tác phẩm văn học là những ấn tượng của tác giả - về cuộc sống, những điều mà người viết trông thấy hoặc biết được trong đời."
Tôi đề nghị nên viết: “Nhà văn không đơn thuần phản ánh hiện thực...”. “... những con người, sự kiện, cảnh vật được mô tả trong tác phẩm văn học đồng thời là những ấn tượng của tác giả về cuộc sống...”. Thêm các chữ "đơn thuần", "đồng thời" thì sẽ tránh được ngộ nhận, nhất là đối với học sinh.
Khái quát lại, vấn đề trên đây liên quan chặt chẽ với đặc trưng cơ bản của văn học là "phản ảnh và sáng tạo". Xin phát biểu kỹ hơn về vấn đề này mà tôi nghĩ là liên quan mật thiết với cuộc tranh luận chung quanh cuốn Văn học lý luận của giáo sư Lê Ngọc Trà.
Nếu chỉ đơn thuần là phản ảnh, thì khoa học, các hình thái ý thức đều phản ánh. Vậy còn đâu là sự cần thiết là lý do tồn tại của văn học nghệ thuật? Văn học phản ánh những đặc trưng khu biệt nó với khoa học, với các hình thái ý thức khác là ở chỗ văn học phản ánh bằng sáng tạo và sáng tạo là để phản ánh. Những nhà bác học vĩ đại, tên tuổi lưu lại muôn đời, đều là những nhà sáng tạo, những trí tuệ vĩ đại của thế kỷ. Thế nhưng nói cho chính xác thì họ chẳng trực tiếp sáng tạo ra cái gì cả. Không ai sáng tạo ra quy luật - quy luật tự nhiên, quy luật xã hội tồn tại một cách khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người. Sáng tạo vĩ đại của các nhà bác học chỉ là ở chỗ tìm ra, phát hiện ra quy luật. Không có họ thì quy luật vẫn tồn tại, không có Niutơn thì vạn vật vẫn hấp dẫn nhau, trái đất không đợi có Galilê mới tròn, mới quay. Kỹ sư, nhà sản xuất sáng tạo nhưng đó là sáng tạo hàng loạt và cũng không nhằm phản ảnh gì hết.
Nhưng đối với văn học nghệ thuật thì hoàn toàn không phải như vậy. Không có Lép Tôlxtôi thì không có Chiến tranh và hòa bình mặc dầu cuộc chiến tranh vệ quốc của nhân dân Nga chống lại Napoléon là sự kiện lịch sử ghi bằng chữ vàng trong lịch sử nước Nga v.v...
Nói một cách giản lược, có thể tóm thu bản chất, đặc trưng của văn học nghệ thuật bằng công thức: phản ảnh - sáng tạo: phản ánh bằng sáng tạo, sáng tạo để phản ảnh, quá trình sáng tạo là quá trình thống nhất mâu thuẫn giữa phản ánh và sáng tạo, chúng không phải là hai khâu tách bạch hay nối tiếp nhau, mà xuyên thấu và chuyển hóa vào nhau. Trên lý luận cũng như trên thực tiễn phê bình, nếu quên mất hay xem nhẹ biện chứng này của sự sáng tạo thì sẽ không tránh khỏi thất bại. Tác phẩm văn học đã phản ánh có sâu có rộng bao nhiêu cũng không là thừa so với đời sống muôn màu muôn vẻ, vận động phát triển không ngừng. Nhưng cái gọi là phản ánh đó sẽ trượt ra khỏi quỹ đạo của văn học nghệ thuật, sẽ không đưa đến đâu, nếu không đi đôi với sáng tạo, nếu không bằng con đường sáng tạo. Điều này có nghĩa là dù đề tài, dù chủ đề có bám chặt lấy đời sống bao nhiêu, mà tác phẩm viết dở, nông cạn, chung chung - nghĩa là thiếu sáng tạo - thì cái gọi là phản ánh đó chẳng qua cũng chỉ là lâu đài xây trên cát. Không đạt tới tính nghệ thuật, tính thống nhất giữa nội dung và hình thức, thì cái gọi là nội dung hiện thực, nội dung tư tưởng cũng chỉ đáng ghi nhận về mặt ý đồ, thiện chí của tác giả mà thôi.
Ngược lại sáng tạo có tài tình đến mấy cũng không bao giờ thừa, có bao nhiêu cá tính sáng tạo cũng không thể coi là đủ, so với sức sáng tạo của bản thân thiên tài - đời sống. Nhưng nếu tác phẩm đó lại xa lạ với đời sống, nội dung nghèo nàn, trống rỗng, thì cũng không có giá trị nào khác ngoài giá trị hình thức, chẳng qua cũng là một thứ bông hoa điếc, vô sinh, giữa sự sinh sôi nảy nở vô cùng vô tận của muôn loài.
Chỉ có ai dở hơi mới chê một tác phẩm nào đó là "phản ánh" quá nhiều. Nhưng sẽ không dở hơi chút nào nếu sự phản ánh này không vượt qua lối chụp ảnh theo đuôi đời sống, chạy theo sự kiện một cách tự nhiên chủ nghĩa. Cũng chỉ có ai dở hơi mới chê một tác phẩm nào đó là quá nhiều "nghiền ngẫm" về đời sống, quá nhiều sáng tạo! Nhưng sẽ không dở hơi chút nào nếu cái gọi là nghiền ngẫm, sáng tạo đó chẳng qua cũng chỉ là lối thuyết lý, suy tư trừu tượng hay lối bịa đặt tùy tiện, ở cả hai trường hợp, biện chứng phản ánh - sáng tạo đã bị phá vỡ, không thể đưa lại giá trị văn học. Bêlinxky gọi nhân vật điển hình là "người xa lạ quen biết". Quen biết, gần gũi nhờ được phản ánh một cách chân thực, xa lạ vì không phải bê nguyên xi mà trải qua sáng tạo, tập trung, nâng cao, nhào nặn lại, vừa giống như trong đời sống vừa không phải là bản thân đời sống.
Ngoài ra, xin nêu thêm vài trường hợp cụ thể:
I. VỀ PHẦN LÝ LUẬN LỚP MƯỜI:
- Có nên để thơ trước truyện không? Thơ xuất hiện trước truyện nhất là ở Việt Nam thơ nổi bật so với truyện.
- Truyện thơ nên để trước truyện vừa, truyện vừa thuộc phạm trù hiện đại, ở Việt Nam xuất hiện sau truyện thơ.
- Đặc điểm của truyện thơ bác học ngoài đặc điểm là nguồn gốc Trung Quốc, nên thêm: tính chất giáo huấn lộ liễu.
- Truyện ngắn được tác giả coi là “khách quan hơn trong truyện cổ tích”. Thực ra cổ tích thuộc phạm trù văn học dân gian, truyện ngắn thuộc phạm trù văn học hiện đại, khác nhau không chỉ khách quan nhiều ít, mà về chất, về thi pháp.
II. VỀ PHẦN LÝ LUẬN LỚP 11:
- Trong bài, không đề cập đến nhân vật trữ tình, nhưng trong phần ôn tập cuối năm lại có câu hỏi: “Cần tìm hiểu trữ tình, chủ thể trữ tình, nhân vật trữ tình”.
- Tác giả coi tất cả thơ mới đều là thơ tự do, có lẽ tự do so với thơ cũ, còn không phải tất cả thơ mới đều tự do. Tự do chỉ nên áp dụng với thơ hợp thể.
- Ngoài thể thơ hai chữ, tám chữ, nên thêm thơ hợp thể rất nhiều trong thơ mới.
- Cách phân bố cục của thơ thất ngôn làm khai thừa thực luận - kết thực ra rất tương đối, nên bỏ để khỏi làm rối trí học sinh. Thơ cổ điển cũng tỏ ra không chặt chẽ, rạch ròi lắm trong vấn đề này.
III. VỀ PHẦN LÝ LUẬN LỚP 12:
- Sách nói: “Phong cách thể hiện trong toàn bộ các yếu tố hình thức nghệ thuật của tác phẩm” đề nghị nên thay bằng "trong toàn bộ thế giới nghệ thuật".
- Sách nói: "Hư cấu nói ở đây không phải là khả năng tưởng tượng phong phú hay nghèo nàn của nghệ sĩ mà chủ yếu là vấn đề tính y như thật hay không thật của các tình huống, các sự việc, câu chuyện trong tác phẩm văn học, hình như có sự lẫn lộn vấn đề hư cấu là gì và vấn đề chất lượng của hư cấu.
- Sách viết: “Trào lưu lãng mạn 30 - 45 là kết quả của việc cách tân hình thức thơ ca nhằm diễn tả tâm trạng lãng mạn...”. Nói thế không chính xác, chủ nghĩa lãng mạn không thể là kết quả của bản thân nó, mà là kết quả của những thay đổi trong xã hội lúc bấy giờ. Cách tân hình thức là một trong nhiều đặc điểm của chủ nghĩa lãng mạn.
L.Đ.K
(TCSH59/01-1994)
PHAN NGỌC
"Kính tặng hương hồn thân phụ"
HỒ VIẾT TƯ
南國山河 南國山河南帝居 截然定分在天書 如何逆虜來侵犯 汝等行看取敗虛 |
NAM QUỐC SƠN HÀ Nam quốc sơn hà Nam Đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư |
NGUYỄN VĂN HÙNG
VĂN HỌC VIỆT NAM 30 NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2016)
LGT: Bài viết tóm tắt những yếu tố và tiến trình tạo thành thơ Tân hình thức Việt, qua sự đối chiếu giữa các thang giá trị, thơ Việt và thơ Anh Mỹ. Vì vậy, tuy không thể tránh những từ chuyên môn về luật tắc thơ, nhưng chúng tôi cố gắng viết rõ ràng từng chi tiết, để người đọc dễ nắm bắt. Thơ Tân hình thức Việt đơn giản, dễ hiểu, nhờ sự tham khảo những nguồn thơ khó, điều này cũng tự nhiên, như Pop Art (bình dân) phản ứng lại hội họa Trừu tượng Biểu hiện (cao cấp). “Nghĩ về cách làm thơ”, cần đọc chậm rãi, trầm tư, và nhiều lần, nếu người đọc thật sự muốn tìm hiểu dòng thơ này.
ĐẶNG ANH ĐÀO
Có thể nói rằng Những thiên đường mù là một câu chuyện dệt bằng những mảnh ký ức trên nền hiện tại.
NGUYỄN VĂN THUẤN
Diễn ngôn tâm thần phân lập (discours schizophrénique) là thuật ngữ do hai triết gia và nhà nghiên cứu văn học người Pháp là G.Deleuze và F.Guattari đề xuất trong công trình viết năm 1972, Chủ nghĩa tư bản và bệnh tâm thần phân lập: Chống Oedipe (Capitalisme et Schizophrénie I. L’Anti-Œdipe).
ĐỖ QUYÊN
“Hãy đánh chết nó đi, nhà phê bình văn học - cái thằng khốn!”
(J.W. Goethe)
Từ năm 1972 cho tới nay đã có nhiều học giả, qua tập Yên thiều bút lục mới sưu tầm và vài nguồn tư liệu khác, đưa ra nhận định: Câu đối “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm/ Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” là của tri phủ Ngải Tuấn Mỹ người Hoa tặng phó sứ Nguyễn Tư Giản khi sứ bộ Việt Nam ghé lại địa phương này chứ không phải của Cao Bá Quát.
PHẠM TẤN XUÂN CAO
Tính khả hữu từ sự xuất hiện của đối tượng trong các chiểu sự là hình thái của đối tượng.(1) (Wittgenstein, Tractatus, 2.0141)
“Khi một điều gì đó trở nên đúng trong hư cấu thì ở đó không còn sự phân biệt khác nhau về mặt hữu thể học và nhận thức luận.”(2) (Gregory Currie)
PHAN TRỌNG HOÀNG LINH
Hài hước: cơn say của tính tương đối nhân thế, niềm vui thú kỳ lạ nảy sinh từ niềm tin chắc rằng chẳng có sự tin chắc nào cả. (Milan Kundera)
NGUYỄN THANH TÂM
Đạo đức (ethic, morality), luân lý (moral), theo Edgar Morin, hai khái niệm này không tách rời nhau, đôi khi chồng lấn và có thể sử dụng bất cứ từ nào(1).
NGUYỄN QUANG HUY
- Để tìm hiểu không gian xã hội của những người sản xuất văn hóa, cần phải tư duy theo mô hình quan hệ.
- Sự việc, hiện tượng bản thân nó không quan trọng, mà chính quan hệ giữa chúng mới có ý nghĩa.
(Pierre Bourdieu)
KHẾ IÊM
Viết hy vọng có thể giúp người đọc tự đánh giá thơ, theo đúng tiêu chuẩn của dòng thơ này, và những nhà thơ Tân hình thức Việt, trong việc thực hành, có thể điều chỉnh những sáng tác của mình, đi xa hơn, và làm nổi bật sự khác biệt giữa các thể loại thơ, tự do và vần điệu.
PHẠM THỊ HOÀI
Tôi không nói tới việc viết văn thuần túy vì mục đích kiếm sống, dù đấy là điều rất đáng bàn, và hơn nữa, sự nghèo túng của những người cầm bút ở xứ sở này đã trở thành truyền thống; cũng không nói đến việc viết văn để kiếm chác một vài thứ khác ít đáng bàn hơn, như danh vị hay thứ đặc quyền xã hội nào đó.
LỮ PHƯƠNG
Sau khi Sông Hương 36, 1989 xuất hiện, cũng đã xuất hiện một số bài báo phản ứng, trong đó có hai bài nhắc đến bài viết của tôi (1) - bài ký tên Trần Phú Lộc: “Ðôi lời nhân đọc Sông Hương số 36”, Văn nghệ số 21, 27-5-1989 và bài ký tên Văn Nguyên: “Báo động thật hay giả”, Nhân dân 20.5.1989.
MAI ANH TUẤN
Cụm từ “văn chương Nguyễn Huy Thiệp” không chỉ được tạo ra bởi và thuộc về giai đoạn văn học Đổi mới (1986) mà giờ đây, rộng rãi và phức tạp hơn rất nhiều, đã có mặt trong nhiều nghiên cứu Việt Nam (Việt học) đương đại, từ văn hóa văn chương đến chính trị - xã hội.
ĐỖ ĐỨC HIỂU
14 tháng bảy 1789, nhân dân Pari chiếm và phá ngục Bastille, biểu trưng của chế độ phong kiến đã tồn tại ở Pháp hàng chục thế kỷ. Nó là một "đại hồng thủy" cuốn sạch một thế giới cũ và mở đầu một thế giới mới ở Pháp, ở Châu Âu và vang dội trên toàn thế giới.
JOSEPH EPSTEIN
(Tiếp theo Sông Hương số 319, tháng 9/2015)
TRẦN HOÀI ANH
1.
Nói đến triết học phương Tây, không thể không nói đến chủ nghĩa hiện sinh, một trào lưu tư tưởng chủ yếu trong trào lưu chủ nghĩa nhân bản phi duy lý của triết học phương Tây hiện đại.