Phiêu lưu với sự viết

09:53 10/02/2023

HOÀNG THỤY ANH

Là nhà văn, bạn mang trong mình “căn bệnh viết”, gánh vác sứ mệnh kể chuyện. Nghiệp vận như thế, buộc bạn lao vào đời sống, tiệm cận đủ các góc độ, kể chuyện mình, chuyện người, chuyện thế cuộc.

Ảnh: internet

Bạn có trong tay căn cước tự do riêng biệt của miền sáng tạo, nhưng lựa chọn phương pháp nào để kích hoạt tính ẩn mật của ngôn ngữ, sức hấp dẫn của câu chuyện, vẫy gọi bạn đọc, luôn là bài toán khó, bởi sự “phì đại” của hiện thực bao giờ cũng đòi hỏi sự “phì đại” của kỹ thuật viết.

1. Hiệu ứng của sự “phì đại”

Sự tác động, chi phối của cuộc cách mạng 4.0, kinh tế, văn hóa, tôn giáo, sắc tộc, ô nhiễm môi trường, bệnh tật,… khiến đời sống xã hội nói chung và lối sống nói riêng đều bị biến dạng, phồn tạp, kéo theo đó là sự soán ngôi của các hệ giá trị mới, trong khi, bản thân các hệ giá trị mới chưa được kiểm chứng, còn nhiều hoài nghi, bất tín nhận thức. Bạn đừng lo ngại, hãy chủ động sống chung với nó, “yêu” nó, “chơi” với nó theo cách của bạn. Đó là lúc bạn thu về lợi thế cho mình. Văn chương vốn dĩ đã cho bạn quyền lực mở rộng hiện thực. Ở đây, sự trương nở của hiện thực lại càng cho bạn thêm nhiều chất liệu sáng tác, nguồn tư liệu, đề tài, cảm hứng để viết. Làn sóng toàn cầu hóa đã phá vỡ những rào cản, giới hạn, biến thế giới thành một sân chơi bình đẳng, sống động, nhưng nó cũng liên tục tạo ra những thách thức. Nó bắt buộc bạn luôn ở trong tâm thế dấn thân, hội nhập để bắt nhịp với thời đại và nỗ lực duy trì cảm hứng sáng tác, “cao tay ấn” về kỹ thuật, đổi mới lối viết, đa dạng đề tài. Vì thế, cuộc sống “phì đại” vừa là chất liệu tuyệt vời cho bạn nhưng cũng vừa là thước đo bản lĩnh, thái độ của bạn.

Nhà văn Milan Kundera nhấn mạnh trong Đời nhẹ khôn kham: “Khi hệ lụy càng nặng thì đời sống càng bị kéo gần đến mặt đất và chúng ta càng sống thật hơn”. Hệ lụy đời sống cho bạn cách sống thật. Sống thật mới viết thật. Những cảm xúc, cảm hứng xuất phát từ trái tim nóng hổi, tha thiết với người, rung động với đời mới đạt đến hiệu lực của nghệ thuật quyến rũ, nghệ thuật cấp cao. Vì chỉ có bạn mới biết ràng buộc mình trong cuộc đày ải vô cùng của trí tuệ, biết thiết tạo vân gỗ riêng, kích thích sự đọc, năng lực tưởng tượng của độc giả. Bạn đứng trong/ ngoài/ trên/ dưới hiện thực hay lùi sâu vào miền tâm linh, huyền ảo,… hẳn trong lòng bạn luôn tràn ngập niềm ham muốn tạo ra những không gian đối thoại tương tác đa chiều. Văn chương không phải là phương thuốc diệu kì để giải quyết hay chấm dứt những xô bồ, hỗn độn của thế giới, nhưng văn chương sẽ mải miết cuốn bạn vào hành trình kiếm tìm giá trị cuộc đời.

Tại sao Nguyễn Bình Phương được đánh giá là một trong số ít cây bút văn xuôi xuất sắc hiện nay và là nhà văn “ngồi riêng một cõi”? Đọc tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Bình Phương, bạn sẽ thấy ông thường viết trong tâm thế vừa kéo hệ lụy của đời sống sát mặt đất vừa xoay vần trong cõi đời lẩn quẩn bằng phong cách mới mẻ, độc đáo, vừa kì bí, huyền ảo vừa sinh động, hiện thực, khiến cuộc tranh biện giữa cái tốt với cái xấu, cái thiện với cái ác diễn ra liên tục, không có điểm dừng. Lối viết của Trần Nhã Thụy lại khác với Nguyễn Bình Phương. Anh hình dung cuộc đời như cái hộp diêm 6 mặt kín bưng, khi mở hộp diêm ra, ta lại có thêm mặt đáy, đó chính là bề sâu của bóng tối và của bản ngã. Nếu không nhìn thấy mặt đáy ấy, con người khó có thể nhận ra cái tôi nguyên gốc, một cái tôi không sao chép, không lặp lại chính mình. Nghệ thuật viết truyện của anh là giải mã cảm giác, phản tư bằng yếu tố ngạc nhiên. Các nhân vật trong truyện thường là “những kẻ câu đêm”, họ thả mình trong bóng tối của cuộc đời, rồi từ bóng tối mã hóa những khả thể đầy phi lý, tính phức hợp/đa trị của ánh sáng, nhận ra những hoen rỉ, những oái ăm đang ăn mòn chính họ và đời sống. Kiểu ứng xử văn chương của Nguyễn Bình Phương và Trần Nhã Thụy đã cho thấy ý thức phát huy cá tính sáng tạo của hai nhà văn trước hiện thực đa phương đa tầng, phi lí, xô bồ, chông chênh.

Hiện thực cuộc sống là chất liệu sáng tạo, là khởi nguồn của cảm hứng. Nhưng hiện thực khi băng qua trái tim của thi sĩ, hiện thực ấy đã bị hệ luỵ, quy chiếu, ảnh hưởng bởi những rung chấn phức tạp, bí ẩn của thế giới nội cảm của anh ta. Lúc này, thi sĩ không chỉ là người mở rộng hiện thực mà còn phủ lên hiện thực những mảng khối, sắc màu đa dạng. Trong thơ Nguyễn Quang Thiều, ông thường dùng hiện thực của tinh thần để soi chiếu hiện thực đời sống. Quán chiếu hiện thực của tinh thần trong nhiều thái cực như dòng hồi tưởng, ký ức ấu thơ, giấc mơ, cõi âm,... ông dựng nên “hiện thực thậm phồn”: một thế giới phức tạp, mâu thuẫn, xung đột gay gắt, một thế giới bao gồm cả thực và ảo. Đó là cách ông “chống lại sự giống người khác”, chống trả những oái ăm, tàn khốc của hiện thực và giúp con người vươn đến những điều tốt đẹp. Đúng như Nguyễn Việt Chiến đã nhận xét, ông là thi sĩ có “một giọng thơ lực lưỡng trên cánh đồng chữ nghĩa”.

Trong tất cả lĩnh vực, không lĩnh vực nào có thể thay thế sứ mệnh của văn chương. Thế giới có xoay vần, biến đổi ra sao thì văn chương vẫn mãi là nguồn sống, là giá trị tinh thần to lớn của nhân loại. Văn chương không thể toàn quyền hủy diệt cái xấu, cái ác, nhưng văn chương có quyền dự phần làm thanh sạch cuộc sống, giúp con người biết khước từ cái ác, cái xấu, sống với lòng bác ái, nhân văn. Do đó, việc bồi đắp sự tỉnh giác, niềm tin và lòng can đảm cho con người trước mặt nạ của đời sống, đó là trách nhiệm và sứ mệnh của bạn. Bạn viết về cái xấu, cái ác không có nghĩa văn bạn đen tối, mà đó là cách bạn dũng cảm phản ứng sự bất toàn của đời sống và truy tìm căn nguyên của nó. Chúng ta thường thấy sự hiện hữu của cái ác, nỗi khổ đau, chết chóc trong tác phẩm của nhà văn Diêm Liên Khoa, nhưng đọc các tác phẩm của ông, chúng ta hoàn toàn bị mê hoặc, bởi chúng ta như đang đối diện với ám ảnh bản thể, nỗi đau của con người và những vấn đề nhức nhối, khủng khiếp của nhân loại. Ông khước từ hiện thực bề nổi, chọn miền sâu thẳm của tâm linh, của tưởng tượng để phản tư/tỉnh hiện thực, tạo nên “hiện thực thậm phồn” và trưng ra những góc khuất, bóng tối của xã hội Trung Quốc đương đại. Tạ Duy Anh cũng là nhà văn viết nhiều viết hay về cái ác, cái xấu, thông qua cái ác, cái xấu, ông đụng chạm đến những vấn đề gai góc, nổi cộm của con người và xã hội để khai thác kiệt cùng bản chất của con người và vấn đề của xã hội, từ đó, thức tỉnh con người trước cõi thế nhá nhem, để “trở về Nguyên Bản, trở về là Một”.

Như vậy, viết trong bầu không khí toàn cầu hóa, trong sự bùng nổ, thống trị của khoa học công nghệ, trong sự đổi thay đầy phức tạp của thế giới, bạn phải đối diện, đối đầu để tìm ra mối liên đới giữa hiện thực và sáng tạo. Vì sự “phì đại”, đổi thay của hiện thực luôn luôn là cú hích để bạn chuyển biến, “phì đại” tư duy nghệ thuật, “phiêu lưu” với sự viết của chính mình.

2. Sức mạnh của sáng tạo

Đối diện với văn bản, nhà văn được nhìn ngắm bản ngã, đối thoại với cái tôi ở bên kia chiếc gương ở mức độ cao nhất, viết trong sự mở lòng, trào sôi và kết nối. Đối diện với tác phẩm, bạn đọc như được lắng nghe tiếng nói của chính mình, cảm nhận rõ hơn về tình yêu, thân phận và cuộc sống. Hiệu ứng liên kết này tự thân đã mặc định sứ mệnh của nhà văn: người mang vác cây-thánh-giá-tình-yêu, ươm mầm cho những điều tốt đẹp. Do vậy, bạn phải viết bằng cả trái tim, bằng cả cuộc đời của mình, kể cả viết trong sự khắc nghiệt, chật hẹp, vì hồi-chuông-lòng của bạn luôn là món quà cao quý, vô giá đối với người đọc. Sự hi sinh của bạn sẽ bù đắp bằng sự trồi lên của tác phẩm. “Căn bệnh viết” buộc bạn lao động nghiêm túc, lao tâm khổ tứ để có tác phẩm chất lượng, nhưng nó cũng lắm lúc đẩy bạn vào tình thế tréo ngoe, oái oăm, thử thách niềm đam mê và nhiệt huyết sáng tạo của bạn. Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, sau một năm xuất bản, mặc dù đoạt giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991, khen chê có cả và số lượng in hơn 5.000 bản, nhưng hầu như không có dư luận gì về cuốn tiểu thuyết này. Ở nước ngoài thì ngược lại, nóng rẫy, được dịch gần 20 thứ tiếng. Mãi đến đầu thế kỉ XXI, cụ thể là năm 2003, cuốn tiểu thuyết mới được tái bản và bắt đầu xôm trò. Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư bị phê phán kiểm điểm. Sau đó, Cánh đồng bất tận được dịch sang nhiều thứ tiếng và đoạt nhiều giải thưởng ở nước ngoài. Hoặc như Vụ án của Franz Kafka, Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust, Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi của Gabriel Garcia Márquez, Lolita của Vladimir Nabokov, đều có số phận đặc biệt, lận đận. Tác gia Proust đã từng nói: “Rồi người đời sẽ đọc tôi. Nhân loại sẽ đọc tôi [...] Stendhal phải mất 100 năm mới được người đời biết đến. Marcel Proust chỉ cần 50 năm thôi”. Dẫn chứng trên cho thấy, những rào cản, áp lực không hề làm suy giảm bản lĩnh của nhà văn trên hành trình sáng tạo dằng dặc. Càng áp lực, sức sáng tạo càng mãnh liệt. Bạn hãy lấy chông gai làm liều thuốc hoàn thiện, trau chuốt ngòi bút, viết như con tằm rút ruột nhả tơ, vì chỉ có sự viết mới giúp bạn vượt lên mọi trở ngại, cho bạn những trang viết chất lượng, tình cảm đẹp và nghệ thuật sống. Trải qua nghiệt ngã thời gian, bạn sẽ nhận được bù đắp xứng đáng, tác phẩm của bạn được người đọc ghi nhận và tỏa sáng.

Nhà văn Wolfgang Kubin đã từng phát biểu, là một nhà văn chân chính, anh đừng bao giờ quan tâm đến thị trường. Dưới sự tác động của đời sống công nghiệp, văn chương trở thành một thứ hàng hóa. Nếu sáng tác vì cơm áo gạo tiền, ồ ạt chạy theo thị trường, hẳn ngòi bút của bạn sẽ bị thao túng, chẳng còn là chính mình, chẳng có tiếng nói, chính kiến. Những toan tính, so đo sẽ kiềm chế thăng hoa của cảm xúc và con đường đi của bạn. Và đó cũng là lúc bạn đã và đang dự phần trì níu tương lai của một nền văn học. Thị hiếu tức thời của công chúng, của thị trường không phải là tiền đề cho tác phẩm tinh hoa ra đời, ngược lại, nó mang đến một gương mặt khô cằn, hời hợt, oặt ẹo. Những tác phẩm tinh hoa ở bất kì hoàn cảnh, thời điểm nào cũng mãi là cái nền vững chắc, là cái lõi, là chất trụ của văn học. Trong sự mờ nhạt, thưa vắng tình cảm, khủng hoảng niềm tin, độc giả đọc văn học tinh hoa cảm giác như được chạm vào vi mạch của đời sống, được thấu suốt những bí ẩn của bản thể, từ đó, tự điều chỉnh và ý thức hơn về lòng bao dung, vị tha và nhân ái. Nên, bạn đừng bao giờ đặt mình trong tâm thế viết phải đạt đến “best seller”, viết phải đoạt danh hiệu hay giải thưởng gì đó. Đừng bị những ý nghĩ ấy mê hoặc, thâu tóm tâm hồn bạn. Bạn hãy viết thật nhất, sâu nhất, lắng đọng nhất bằng chính sự vang động tự do, thoải mái trong tâm hồn, bằng sự đầu tư công phu của trí tuệ, kinh nghiệm. Sự tự kiêu trước những ma mị của vật chất, danh tiếng đã thể hiện bản lĩnh, chiến lược/thuật tạo dựng và vun đắp tính chuyên nghiệp của bạn. Nếu bạn được giải thưởng, vinh danh thì hãy lấy đó làm động lực để tiếp tục viết, chứ đừng “tự ngắm”, tự mãn, bởi văn chương cũng như dòng sông chảy mãi theo năm tháng.

Viết là hành trình. Nhất là trong thời kì bạn có nhiều cơ hội giao lưu, học hỏi, thẩm thấu giá trị của nhân loại, đòi hỏi bạn kiên định, cẩn trọng với ngòi bút của mình, làm sao để con đường sáng tạo không bị tụt hậu, đứt đoạn. Vì văn chương vốn dĩ là cuộc chơi đầy khó khăn, thử thách và không bao giờ có đích cuối cùng. Tác phẩm để đời không thuộc về bạn, nếu bạn không tự khắt khe, ý thức về sự “tự vượt” trong tư duy sáng tạo. Và thứ nữa, nếu bạn “ăn mày dĩ vãng”, nhai lại chính mình, thỏa mãn với những gì mà bạn đang có, nghĩa là bạn đang tự đào mồ chôn mình. Bạn hãy bước ra khỏi vùng an toàn, bước ra những giới hạn của bản thân, chấp nhận một hoặc nhiều cú trật bánh để chuyển hướng sáng tạo. Bởi, “phá hủy là sáng tạo” (Inrasara). Phá hủy sẽ cho bạn cái nhìn đa diện và sự tươi mới trong phong cách diễn ngôn. Mọi thử thách luôn được đền đáp. Mỗi lần bạn viết lại hoặc chối từ, vứt bỏ là mỗi lần bạn lớn lên. Các nhà văn lớn như Honoré de Balzac, V.Hugo, Gustave Flaubert, James Joyce, Franz Kafka,… đều nổi tiếng với sự tỉ mỉ, chỉn chu, thận trọng với những gì họ viết ra. Sự nghiêm khắc với sáng tạo là ý thức và trách nhiệm của bất kì người viết nào. Sức mạnh của sự chối từ, đả phá cái quen thuộc, lặp lại sáo mòn sẽ mang đến cho bạn những trạng thái hân hoan, vui sướng. Khoái cảm trải nghiệm cái mới từ đó tiếp tục nảy sinh những ngả hướng sáng tạo, dựng nên miền đa dạng của cái tôi, tính đa thanh của văn bản. Khó tính với ngòi bút của mình là con đường dẫn đến thành công.

Trước nhịp sống công nghiệp, sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường, trái tim nhạy cảm của người nghệ sĩ trong bạn sẽ tìm đến miền dịu dàng bí ẩn, thanh tịnh của tâm hồn, thoát khỏi những ma lực bên ngoài đang không ngừng xâm nhập, ràng buộc bạn. Lúc này bạn có nhiều hơn một nỗi cô đơn: nỗi cô đơn trước cuộc sống bất toàn và nỗi cô đơn trước trang viết. Nỗi cô đơn trước cuộc sống bất toàn dồn nén, vun đắp ý tưởng cho bạn, và bạn giải tỏa nó bằng sự viết. Còn nỗi cô đơn trước trang viết, đó là thứ men mà người bình thường không có được. Cho nên, cuộc sống càng “phì đại” càng giúp bạn lùi sâu vào bên trong để suy ngẫm, chiêm nghiệm và thúc đẩy sáng tạo. Tuy nhiên, bạn đã “đủ cô đơn cho sáng tạo chưa?” (Inrasara). Hay nói cách khác, nỗi cô đơn của bạn đã “đủ lớn, đủ mạnh” chưa? Nỗi cô đơn của nhà văn được hiểu là nguồn năng lượng tích cực, biểu hiện cao nhất của tâm trí tĩnh lặng, là nỗi cô đơn nở hoa, kết trái. Bạn phải biết trân trọng, chăm chút nỗi cô đơn của chính mình. Nếu bạn không có nó, bạn cần tạo ra nỗi cô đơn, chứ đừng ngồi chờ nỗi cô đơn đến. Marguerite Duras đã khẳng định: “Nỗi cô đơn của người viết là nỗi cô đơn mà không có nó sẽ không có tác phẩm…”*. Chính bà đã nhiều lần tự trói buộc, giam cầm trong ngôi nhà, ngắt mọi kết nối với bên ngoài và kể cả ngắt tiếng nói của mình để được viết. Những kiềm tỏa, áp đặt của bà trở nên có ý nghĩa: đổi sự mất tự do bên ngoài để có được sự tự do bên trong tâm hồn, đổi sự náo động bên ngoài để có được sự nổi loạn bên trong. Bạn chăm chỉ lao động, “nuôi” nỗi cô đơn, tạo những cuộc phiêu lưu trong mình, là bạn đang chăm sóc nguồn cảm hứng và tái tạo sự viết. Nói gì thì nói, muốn đi đường dài, bạn phải năng động, sáng tạo, bứt phá, sống mái với con chữ và kích hoạt tính “dậy thì” vĩnh hằng của cái tôi và không ngừng “quấy” nó, “vọc” nó. Bởi, hành trình cô đơn của nhà văn chính là hành trình thúc đẩy sự viết và sáng tạo.

Viết trong những thay đổi của thế giới nghĩa là bạn đang làm đẹp giá trị chính mình, không ngừng vươn đến giá trị văn hóa.

H.T.A
(TCSH407/01-2023)

------------------------
* Marguerite Duras, Viết (Trần Văn Công dịch), Nxb. Văn học & Nhã Nam, 2010, tr.13.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.

  • THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.