PHẠM XUÂN DŨNG
(Đọc tập sách “Bên sông Ô Lâu” của tác giả Phi Tân, Nxb. Lao Động, 2021)
Sau thành công của tập tản văn, tạp bút Ngoại ô thương nhớ, tác giả Phi Tân vừa trình làng đứa con tinh thần thứ hai Bên sông Ô Lâu cũng được độc giả gần xa hoan hỉ đón nhận và đồng cảm.
Chợt nhớ lại những tác phẩm tên tuổi viết về quá khứ như tiểu thuyết Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust hay bài thơ Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ: “Hương thời gian thanh thanh/ Màu thời gian tím ngát...”. Và ký ức quê nhà qua giọng thơ cầu xin thật lòng đến thắt ruột của Nguyễn Bính: “Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa!” Mông lung một chút để thấy rằng ký ức, nhất là ký ức chân quê có một nội lực bình dân mà thâm hậu, có lẽ chỉ có nó mới có thể đối chọi với sự quên lãng khắc nghiệt của thời gian. Ai vượt qua được thử thách này, người ấy hẳn sở hữu một tâm hồn giàu có, sống được nhiều cuộc đời trong một cuộc đời. Phi Tân may mắn thay, được số phận lựa chọn, là một người như thế.
Trong ký ức Phi Tân dường như an trú một nhà quay phim thiện nghệ và tận tụy. Người này luôn mắt thấy, tai nghe... đặc tả những gì cần thiết rồi qua “bộ lọc” của tác giả diễn đạt lại bằng ngôn từ bình dị và gợi cảm, thường không trùng lặp. Ví như trong tập sách trước, có bốn năm bài về tết, nay đến tập sách này sơ sơ cũng năm bài về tết: Cuối năm ngồi nhớ chợ quê, Chuyến xe đò cuối năm, Tết về nhớ bài tới, Mai nở ngày xuân và May trời còn cho tết. Chỉ đọc một đoạn văn sau đã thấy nao lòng: “Niềm hạnh phúc của tuổi thơ tôi là những lần đi chợ tết. Tôi nhớ những con bột xanh đỏ tím vàng bắt hình nải chuối, con vịt, con gà hay chiếc thuyền. Tôi nhớ ở hàng mụ Sói có treo mấy bức tranh vẽ mai lan cúc trúc và ở hàng mô cũng thắm màu những phong pháo mới... Và đến khi trong triêng gióng của mạ có đầy đủ màu cam của mấy củ cà rốt, màu xanh của trái su le và bắp cải, màu đỏ mọng của mấy trái cà chua và màu nâu của mấy tai nấm mèo... thì tôi thấy mạ đang gánh Tết từ chợ về nhà” (Bên sông Ô Lâu). Bất giác liên tưởng đến bài thơ giàu cổ điển “Chợ tết” của Đoàn Văn Cừ.
Hay trong “Những mùa Phật đản” lời văn nhẹ, khoan thai như tiếng chuông chùa xứ Huế, thủ thỉ những điều gần gụi mà tâm tình: “Tiếng chuông trống Bát nhã. Lời kinh cầu nguyện Đức Phật khoan nhặt gần gũi và những gương mặt thành tâm của những lương dân quê tôi. Mái chùa đã che chở hồn quê, cũng là bóng mát từ tâm cho bao người...
...Có những mùa Phật đản an hòa để Huế luôn là xứ sở bình yên trong tiếng chuông chùa hôm sớm. Để bảy đóa hoa hồng tỏa bóng trên dòng Hương mà ai ngắm nhìn đều như thấy được một chút bình yên...”.
Chuyện tết nhất, chuyện lễ Phật đản là chuyện lớn nên có thể có nhiều điều để nói nhưng ngay cả những đề tài, sự việc có vẻ quá “nhỏ nhặt”, thậm chí vu vơ, tưởng chỉ một vài câu là xong mà qua ngòi bút Phi Tân cứ xao động như thường. Tưởng chừng như kỷ niệm bời bời, cứ giắt sẵn trong túi quần túi áo, cần là lấy ra ngay, mọi thứ còn tươi nguyên và nóng hổi. Cứ nhìn những nhan đề bài viết thì sẽ rõ: Đụn rơm, Lũ vịt, Giếng quê, Con hói ở làng...
Thì như “đụn rơm” là chuyện thường ngày ở quê, nhất là ngày trước, ai cũng biết, quen thuộc đến không còn gì để nói, để bàn. Vậy mà tác giả cứ tỉ tê, từ chuyện cô gái nơi khác làm dâu xứ ruộng, nấu bếp bằng rơm không quen, lấm lem mặt mày, nay nấu bếp ga còn nhắc chuyện cũ, rồi chuyện có nhà lơ đãng để lửa rơm cháy lan suýt nữa cháy nhà khiến cả xóm một phen nháo nhác... rồi làng quê văn minh lên thì phải nên các đụn rơm ngày một thưa vắng, khiến người yêu quê không khỏi chạnh lòng và nhớ, nỗi nhớ xốn xang, trĩu nặng hơn rơm rạ rất nhiều...
“Rơm làm chất đốt cho người, làm thức ăn cho trâu bò, làm “chăn ấm” cho heo gà vịt trong những ngày mưa gió. Rồi rơm ủ lên những vồn ném, kiệu, hành, ngò, cải... che mưa và ủ ấm đất cho hạt củ ươm mầm. Những luống rau vườn nhà được khoác chiếc áo vàn rơm rạ cuối đông; để chừng sang xuân thì thay áo mới màu xuân mơn mởn.
Mà cái đụn rơm ở nhà quê ấy là cả một không gian cho lũ con nít chơi trò trốn tìm quanh quẩn hay có những cặp trai gái quê hẹn hò nơi rơm rạ mà nên vợ thành chồng... Cứ nhớ khi cái đụn rơm vơi dần, vơi dần biến thành hình như chiếc dù to là biết mùa màng sắp tới”.
Thì ra rơm rạ cũng ủ ấm hồn người, cất giấu bao kỷ niệm vui buồn của làng quê lam lũ mà yêu dấu. Rơm rạ không phải vô tri mà cũng như người, ẩn chứa linh hồn!
Hay “Ngư cụ nhà nông” của cư dân lúa nước, ruộng và sông liền nhau nên các đồ nghề đánh bắt cá tôm cũng nhiều hình nhiều vẻ, từ cần câu cho đến chơm cá, dẹp cho đến bộ tròn trào... gắn bó như chân với tay những thợ cày, nhất là những lão nông tri điền, nhìn ruộng, nhìn nước là biết nơi nao nhiều tôm cá. Nhưng rồi những biến cải cuộc đời khác xưa, nhiều chuyện chỉ còn là kỷ niệm.
“Mùa mưa lại về. Ông ngồi uống trà, ngắm những ngư cụ thân thương mà buồn. Cái cảnh hàng chục người vác chơm ra ruộng bắt cá ở làng ông chừ không còn nữa. Những phương tiện đánh bắt cá bằng điện, bằng máy móc hiệu quả hơn nhưng cũng tận diệt môi trường, làm cho cá đồng quê ông ngày một cạn kiệt dần. Cái chơm, cái oi, bộ tròn trào gần gũi với đời sống của nhà nông năm nào cứ thế hiếm dần và chắc không lâu nữa chúng chỉ còn là ký ức...”.
Chuyện cây tre Việt Nam bao người đã nói, có người đã viết rất hay, tưởng chẳng có gì mới hơn để tốn thêm bút mực. Nhưng không, Phi Tân vẫn có tre của riêng mình khi anh viết “Những bờ tre của tôi”. Sau khi nhắc lại nhiều chuyện sau lũy tre làng, theo kiểu dân gian hay ví von nói “chuyện cây mang sang cây khế” của tản văn, tạp bút, kể cả thành ngữ đánh giá giàu nghèo: “Đêm nghe chó, ngày ngó tre”, tác giả nhắc lại những kỷ niệm êm đềm và cả những biến cố sinh tử của đời người nương tựa lũy tre mà qua kiếp nạn thiên tai lũ lụt.
“...Tôi vẫn thích nhất những căn nhà ở làng quê được bao bọc bởi những bờ tre cạnh những thửa ruộng. Khi lúa chín vàng thì đó là một bức tranh thôn dã hiền hòa, trù mật. Ngày mùa, nông dân gặt lúa ngồi nghỉ mát dưới bóng tre. Người nông thôn từ bao đời nay đã biết ơn những bờ tre che chắn. Tôi còn nhớ cơn lụt lớn 1983, ba tôi đã bám vào những thân tre để bồng bế bà nội và lũ con đến nơi tránh lũ. Khi nước rút rồi, những vật dụng trong nhà trôi ra vườn đã được bờ tre giữ lại cho người...”.
Phi Tân là người có tài quan sát, lại có một bộ nhớ tốt nên bài viết của anh thường ngồn ngộn chi tiết, tươi rói kỷ niệm, tuôn trào từ ký ức. Phải là một người hiểu quê và yêu quê nhiều lắm mới nặng lòng đến vậy và nhất là tạo được một cảm quan và giọng điệu của riêng mình. Viết lách mà khiến cho người đọc mến yêu, hâm mộ và nhớ đến là chuyện không dễ gì làm được, kể cả với bao người lăn lộn nhiều năm theo văn bút.
Xứ Huế vốn là nơi thu nhận, vun bồi và dung dưỡng nhiều cây bút tài hoa. Nhưng tìm cho mình một lối đi không lẫn với ai khác như Phi Tân là chuyện tốt lành, thú vị thật tình ghi nhận. Nên luôn mong anh vẫn cứ chính mình.
P.X.D
(SHSDB42/09-2021)
PHONG LÊ
Thanh Tịnh (12/12/1911 - 17/7/1988), trước hết là một nhà Thơ mới, tác giả tập thơ Hận chiến trường (1936) với hai bài Mòn mỏi và Tơ trời với tơ lòng được Hoài Thanh chọn đưa vào Thi nhân Việt Nam cùng với lời bình.
LÊ HỒ QUANG
Dưới “áp lực” của tiêu đề, khi đọc Thỏa thuận, gần như ngay lập tức, trong óc tôi nảy sinh hàng loạt câu hỏi: Thỏa thuận nói về cái gì?
VÕ QUÊ
Từ trước đến nay chúng tôi chỉ được đọc và trân quý thơ văn của nhà thơ Lê Quốc Hán qua những bài viết đăng trên các tạp chí, trên mạng thông tin, báo điện tử mà chưa được trực tiếp cầm trên tay một cuốn sách nào của ông.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc “Phùng Quán & Tôi” của Xuân Đài, Nxb. Phụ nữ Việt Nam, 2020)
HỒ THẾ HÀ
Hồng Nhu xuất phát nghiệp bút của mình bằng văn xuôi. Văn xuôi gắn bó với đời như một duyên mệnh.
YẾN THANH
Rất nhiều nhà văn thành danh hiện nay, sau những thành công trên trường văn trận bút, đột nhiên họ làm bạn đọc bất ngờ bằng cách chuyển hướng sang viết cho thiếu nhi, như trường hợp của Nguyễn Lãm Thắng, Nguyễn Đình Tú, Phong Điệp, Dương Thụy, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Đỗ Bích Thúy…
ĐỖ THU THỦY
1.
Trường ca Ngang qua bình minh là ấn phẩm thứ ba của nhà thơ Lữ Mai, sau hai tập tản văn và ký sự: Nơi đầu sóng, Mắt trùng khơi viết về đề tài biển đảo.
NGƯỜI THỰC HIỆN:
Lê Thị Mây là một cô gái cực kỳ ít nói. Nhà thơ chi thích lặng lẽ nhìn, lặng lẽ nghe, lặng lẽ suy ngẫm... Và nếu như phải nói gì trước đám đông thì đó là một "cực hình" - Kể cả đọc thơ mình - Mây vẫn như vậy.
NGUYỄN THỊ LIÊN TÂM
NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG
Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất của nhà thơ Quang Dũng (1921 - 1988).
LÊ NGUYỄN LƯU
Trong nền văn học đời Đường, thơ ca có một vị trí đặc biệt, trội hơn cả phú đời Hán, từ đời Tống, khúc đời Minh...
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc “Miền quê thơ ấu” - Hồi ký của Thanh Tùng, Nxb. Thuận Hóa, 2020)
VÕ QUÊ
Cố đô Huế - Dấu ấn thời gian” là công trình nghiên cứu thứ ba của nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Vĩnh do Nhà xuất bản Đại học Huế cấp giấy phép, tiếp theo 2 ấn bản “Dấu tích văn hóa thời Nguyễn” (in năm 1996 và 2 lần tái bản có bổ sung năm 1998, 2000); “Giữ hồn cho Huế” (2006).
PHONG LÊ
Anh "nhà quê" "chơi trèo" thành phố, với những thất bại và bi kịch khó tránh của nó. Mối quan hệ so le, bất bình đẳng giữa nông thôn và thành thị...
KỶ NIỆM 35 HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM (1957-1992) - 60 NĂM PHONG TRÀO THƠ MỚI (1932-1992)
NGÔ MINH
+ Cái đêm thẳm khuya Cửa Tùng gió ấy, tôi ngồi với Nguyễn Khắc Thạch bên này bờ sông, bên này chai rượu Huế, bên này mũi Si và bên này những nén nhang lập lòe như hồn ma nơi xóm Cửa!
VƯƠNG HỒNG HOAN
Vài năm gần đây truyện ngắn của Triều Nguyên xuất hiện trên Sông Hương. "Tháng bảy không mưa" là tập truyện ngắn đầu tay tập hợp một số những sáng tác chưa được công bố của anh. Đề tài chủ yếu trong tập truyện là viết về nông thôn.
PHONG LÊ
Một sự nghiệp viết chẵn năm mươi năm, tính từ Yêu sách của nhân dân An Nam (1919) đến Di chúc (1969).
NGUYỄN THÙY TRANG
THÍCH CHẤN ĐẠO
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là một Thiền phái nhất tông mang tinh thần nhập thế tích cực đã góp phần quan trọng trong công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.