Pháp lam Việt và dấu ấn sáng tạo

08:23 10/02/2014

Hiện nay, nghệ thuật pháp lam- Huế còn nhiều kiệt tác chưa được khám phá. Ấn tượng về sự sáng tạo tinh xảo của người nghệ nhân đi trước là động lực để người đương thời tạo nên những tác phẩm mới...

Tách trà pháp lam, vật dụng cung đình Nguyễn.

Muộn còn hơn không


Trên phạm vi cả nước, cố đô Huế hiện còn giữ được nhiều tác phẩm pháp lam nhất, và toàn là những tác phẩm đẹp nhất. Điều này cũng dễ hiểu, vì nhà Nguyễn, đặc biệt 3 vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức ưa chuộng dòng nghệ thuật này, nên cho sử dụng vào việc trang hoàng cung cấm, lăng tẩm, phủ đệ…

 

Pháp lam là danh xưng do triều đình nhà Nguyễn đặt ra để gọi những chế phẩm làm bằng đồng tráng men nhiều màu, do các nghệ nhân trong quan xưởng của triều Nguyễn, tiếp thu từ kỹ nghệ chế tác “pháp lang” (falang) của người Trung Quốc. Căn cứ vào các tài liệu, thư tịch và hiện vật pháp lam ở bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế, cũng như trên các công trình kiến trúc thời Nguyễn, cho thấy kỹ nghệ chế tác pháp lam được nghệ nhân Việt Nam tiếp thu từ nước ngoài, nhưng có sáng tạo. Những sản phẩm tuyệt mỹ đó, một số đang được trưng bày, quản lý cẩn thận ở Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế và rải rác trong các di tích khác ở Huế.

 

Bình hoa pháp lam (mới) tại Festival làng nghề 2013 Huế.


Pháp lam Huế xuất hiện dưới triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, là buổi thịnh thời của triều Nguyễn: quốc gia thống nhất, kinh tế ổn định. Triều đình chăm lo việc xây dựng kinh đô, đền miếu, trang trí tô điểm cho đời sống đế vương. Để thực hiện công việc lớn lao đó, nhiều nghệ nhân đã được chọn, gửi đi học nghề ở Trung Quốc, đương thời là một quốc gia nổi tiếng về các nghề thủ công, mỹ nghệ. Do vậy, có thể dự đoán đã có một số tác phẩm pháp lam được mua về từ nước ngoài, trước khi nghề pháp lam ở Huế ra đời. Đa phần nguyên liệu phải mua từ nước ngoài rất tốn kém, kỹ thuật chế tác phức tạp, trải qua nhiều công đoạn, nên muốn học nghề pháp lam phải có kinh tế gia đình khá giả, ổn định.

 

Sản phẩm pháp lam (mới) được giới thiệu với công chúng.


Gần 150 năm tồn tại, nhà Nguyễn để lại trên đất cố đô Huế những tác phẩm pháp lam có một không hai, vừa là một loại hình trang trí, vừa là những tác phẩm nghệ thuật. Nghệ thuật pháp lam không phải là nghệ thuật phổ thông, đối tượng tiêu thụ sản phẩm là thành phần giàu có thời Nguyễn: hoàng thân quốc thích, quan lại, phú hộ... Vì thế, dòng sản phẩm này sau năm 1945 chỉ tồn tại ở bộ phận nhỏ như: phủ đệ, dinh thự.. Trong dân gian, ít gia đình nào sở hữu các tác phẩm pháp lam. Do đó sự phổ biến, kế tục nghệ thuật pháp lam phần nào bị hạn chế.


Sau này, khi xã hội bắt đầu chú ý đến các tác phẩm pháp lam, thì nghệ thuật này đã mai một, thất truyền về kỹ thuật chế tác, và không còn dấu tích các lò xưởng. Hiện nay, đang có những công trình tìm tòi, nhằm khôi phục nghề pháp lam Huế. Tuy cố gắng nhiều, song kết quả rất khiêm tốn, chất lượng sản phẩm chưa đạt chuẩn. Song cũng là tín hiệu đáng mừng về việc hồi sinh nghề pháp lam ở Việt Nam.


Tiếp thu và sáng tạo


Do hiện vật pháp lam ở Huế đa số thuộc loại hình pháp lam “họa”, chỉ được sử dụng trong hoàng cung, nên thuật ngữ pháp lam Huế được dùng để gọi chung kỹ nghệ chế tác pháp lam ở Việt Nam. Đối với người Trung Quốc, cầu kỳ hơn, pháp lam là tất cả các chế phẩm có cốt làm bằng đồng, được phủ một hoặc nhiều lớp men màu, rồi đem nung. Tùy theo phương pháp chế tác thai cốt (dán chỉ đồng hay chạm trổ trực tiếp lên cốt đồng) và phương thức tráng men (phủ men vào các ô trũng) hay trực tiếp vẽ các họa tiết trang trí bằng men màu (trên bề mặt cốt đồng) mà người ta kiểm định tác phẩm.

 

Những cổ vật pháp lam tuyệt mỹ được trưng bày.


Xét về chức năng, pháp lam Huế là một loại vật liệu kiến trúc, chịu đựng tốt các tác động ngoại lực, nhiệt độ, tác hại của mưa nắng và thời gian. Vì thế, thường được sử dụng để tạo thành các đồ án trang trí hình khối gắn trên đầu đao, đỉnh nóc, bờ quyết, mái nhà… hoặc tạo thành các mảng trang trí phẳng, hình vẽ phong cảnh, hoa cỏ, chim muông, thơ văn chữ Hán… trên các cung điện, các nghi môn hoàng cung và lăng tẩm nhà vua. Xét về mỹ thuật, pháp lam Huế là những tác phẩm nghệ thuật đa dạng, màu sắc rực rỡ, đề tài trang trí phong phú và sinh động.

Chúng đều là những cổ vật quý hiếm, sang trọng, chỉ được dùng để trang trí ở những nơi cung điện, tôn miếu uy nghiêm như điện Thái Hòa (Đại Nội, Huế), điện Hòa Khiêm (làng Tự Đức), điện Biểu Đức (làng Thiệu Trị)... , hoặc là đồ dùng trong cung đình như bát, tô, đĩa, khay, chậu hoa, bình hoa, hộp trầu, hộp phấn và những đồ tế tự như lư trầm, bát hương, quả bồng... Trình độ kỹ thuật chế tác pháp lam thời kỳ đầu chưa đạt độ sắc nét, tinh xảo, màu sắc không bằng pháp lam nước ngoài, nhất là Trung Quốc. Tuy nhiên, pháp lam Huế lại khẳng định dấu ấn sáng tạo của người Việt, của văn hóa Việt.


Tại Huế, trong Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình đang trưng bày 98 hiện vật pháp lam quý giá, gồm các vật dụng cung đình như: bát, ly, khay, đĩa, bình hoa, chum, hộp, quả bồng, lư hương, bát hương, chậu đựng cành vàng lá ngọc... Ngoài ra, pháp lam còn được lưu giữ trên các đồ áng rồng, máy, bát bửu, hoa điểu, thơ văn chữ Hán... tại một số công trình kiến trúc khác. Đa số những hiện vật pháp lam này đều do nghệ nhân và thợ Việt Nam làm, với sự giúp đỡ của các nghệ nhân mời từ Trung Quốc sang.

Căn cứ vào các tác phẩm còn lưu giữ ở Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế, có thể thấy dòng pháp lam Huế (thời Nguyễn) có đặc trưng riêng, không rập khuôn với dòng pháp lam thời Minh và thời Thanh ở Trung Quốc. Đây chính là thành tựu đáng trân trọng của các nghệ nhân pháp lam tiền bối.

 

Theo baotintuc.vn

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Theo truyền thuyết, ngày xửa ngày xưa, có một vị thần gánh đất để ngăn sông đắp núi. Một hôm vị thần đó đang gánh đất thì bỗng nhiên đòn gánh bị gãy làm hai, nên bây giờ đã để lại hai quả đất khổng lồ khoảng cách nhau hơn một km đó chính là núi Linh thái và núi Túy Vân ngày nay thuộc xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế.

  • Vua Gia Long vốn không phải là con người hiếu sát. Ngay cả việc đối với họ Trịnh, hai bên đánh nhau ròng rã 45 năm trời, vậy mà khi đã lấy được nước (1802), vẫn đối xử tốt với con cháu họ Trịnh chứ đâu đến cạn tàu ráo máng như với Tây Sơn?

  • Các hoàng đế nước Việt xưa phần lớn giỏi chữ Hán, biết thơ văn, triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn đời nào cũng có các tác phẩm ngự chế quý giá. Nhưng tất cả các tác phẩm ấy đều nằm trong quỹ đạo Nho Giáo, dùng chữ Hán và chữ Nôm để diễn đạt cảm xúc về tư tưởng của mình. 

  • Trái với sự nổi tiếng của lăng mộ các vua nhà Nguyễn, lăng mộ 9 chúa Nguyễn ở Huế không được nhiều người biết đến...

  • Nhắc đến vua Minh Mạng, người đời nghĩ đến ngay hình ảnh của một quân vương nổi tiếng quyết đoán và giai thoại về năng lực giường chiếu phi thường.

  • Chiều 3/10, chiếc xe kéo của Hoàng thái hậu Từ Minh, mẹ vua Thành Thái chính thức được chuyển vào Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp để chuẩn bị đưa về Việt Nam. 

  • Đèo Hải Vân nằm trên dãy Trường Sơn, ở ranh giới 2 tỉnh Thừa Thiên-Huế (phía bắc) và TP.Đà Nẵng (phía Nam). Đây là con đèo hiểm trở nhất dọc tuyến đường bắc nam, do có vị trí địa lý hiểm yếu, bởi kiến tạo địa chất của dãy núi cắt ngang đất nước, từ biên giới phía Tây tới sát biển Đông.

  • Cứ đến gần cuối năm, khi lúa trên rẫy đã đến độ chín vàng. Trời đông cũng đang se sắt lạnh, sương trắng bồng bềnh bay trên đỉnh núi A Túc là lúc mà toàn thể dân làng dù là tộc người Pacôh, TàÔi, Cơtu hay Pa hy.

  • Là điểm du lịch nổi tiếng của Thừa Thiên - Huế, Bạch Mã có rất nhiều nơi để tham quan như: Thác Đỗ Quyên, Ngũ Hồ, Vọng Hải Đài với vẻ đẹp của núi trời như một bức tranh thủy mặc.

  • Sau chiến tranh, gần 2/3 trong tổng số gần 300 công trình kiến trúc nghệ thuật cung đình của cố đô Huế trở thành phế tích, số còn lại trong tình trạng hư hại, xuống cấp nghiêm trọng. Cùng với việc nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, tỉnh Thừa Thiên - Huế đã mở cuộc vận động bảo vệ di tích Huế và đạt kết quả to lớn.

  • Được xây dựng cách đây hơn 400 năm với bao biến động nhưng chùa Thiên Mụ vẫn giữ được vẻ uy nghi, thanh tịnh và cổ kính bên dòng sông Hương...

  • Không nơi đâu người phụ nữ lại thích mặc áo dài như ở Huế. Thậm chí, chiếc áo dài đã trở thành biểu tượng của các cô gái Huế. Điều đó đã làm cho  du khách khi đến với Huế nhiều khi phải ngẩn ngơ khi có dịp được ngắm nhìn, chiêm ngưỡng.

  • Thời 13 vua Nguyễn (1802-1845) trị vì triều đại phong kiến cuối cùng Việt Nam đóng kinh đô tại Huế đã ghi nhận một số hoạt động khá phong phú của ngựa, dù thời này ngựa ít được dùng vào hoạt động quân sự.

  • Trong tất cả các triều đại phong kiến, duy nhất ở cố đô Huế có Bình An Đường là nhà an dưỡng và khám, chữa bệnh đặc biệt chỉ dành riêng cho các thái giám, cung nữ (thời vua nhà Nguyễn).

  • Huế, miền đất cố đô nằm ở miền trung Việt Nam, vẫn được biết đến như một thành phố thơ mộng và lãng mạn.

  • Đối với di sản văn hóa của dân tộc, tài liệu châu bản là một di sản có giá trị lớn. Đó là ký ức của lịch sử, là nguồn sử liệu gốc có ý nghĩa to lớn đối với việc nghiên cứu và biên soạn lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, hầu hết các triều đại phong kiến Việt Nam đều không còn lưu giữ được nguồn tài liệu quý báu này, trừ triều Nguyễn (1802-1945), do những điều kiện lịch sử đặc biệt.

  • Hình ảnh thiên nhiên, con người và những lăng tẩm đền đài của xứ Huế vương vấn bước chân du khách mỗi lần có dịp ghé qua...

  • Làng Mỹ Lợi (xã Vinh Mỹ) và làng An Nông (xã Lộc Bổn, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên- Huế) là nơi lưu giữ những tài liệu chứng minh chủ quyền biển đảo Hoàng Sa của nước ta. Những tài liệu quý hàng trăm năm tuổi được người dân các ngôi làng này xem như báu vật và dốc sức giữ gìn.

  • Ngày 15/8/1945, Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng Minh cũng là lúc ở Việt Nam, các thế lực bước vào một cuộc chạy đua nước rút để nắm quyền định đoạt tương lai nước này sau 80 năm là thuộc địa Pháp.

  • Khải Định đã tìm được một thế đất dường như “sinh ra để làm nơi ngả lưng cho một linh hồn quyền quý”…