Phạm trù chủ nghĩa cá nhân của tư tưởng phương Tây trong sự lý giải của Phan Khôi

10:06 01/10/2008
LẠI NGUYÊN ÂN 1. Phạm trù chủ nghĩa cá nhân (individualisme) của tư tưởng phương Tây được Phan Khôi (1887-1959) đề cập từ cuối những năm 1920 đầu những năm 1930, khi mà một trong những đề tài thu hút ngòi bút viết báo của ông chính là vấn đề thời sự của đời sống văn hoá tư tưởng đương thời: trạng thái và số phận của những tư tưởng cổ truyền phương Đông trước một xu thế đang diễn ra trên chính phương Đông, được gọi là xu hướng “Âu hoá”.

Ông từng tham gia luận bàn về “học thuyết cũ với vận mạng mới nước Tàu”, [1] thảo luận và đưa ra ý kiến phủ định đối với “cái thuyết Âu châu sắp tan nát” của học giả Trung Hoa Cô Hồng Minh, [2] kiểm điểm di sản Nho giáo trên đất Việt Nam, [3] nhìn rộng ra cuộc tiến hoá trong “cạnh tranh sinh tồn” của loài người trên toàn cầu và đi tới nhận định chung: “... cái đại thể các dân tộc yếu ở Á châu ngày nay là phải học theo Âu châu thì mới có thể sanh tồn”, [4] hơn thế nữa, “muốn duy tân cải cách thì phải bắt đầu từ học thuật tư tưởng mà duy tân cải cách trước”. [5]
Theo sự sưu tầm nghiên cứu của tôi, trong những năm này, ít nhất có 2 tài liệu cho thấy rõ nhất sự lý giải của Phan Khôi về phạm trù chủ nghĩa cá nhân của tư tưởng phương Tây.

Năm 1928, trong bài “Tư tưởng của Tây phương và Đông phương” (Đông Pháp thời báo, 27/9/1928; 2/10/1928), [6] Phan Khôi nêu ra 3 điểm so sánh sự khác biệt giữa tư tưởng của phương Tây và của phương Đông: “1/ Tây phương chuộng khoa học, Đông phương chuộng huyền học”; “2/ Tây phương trọng tự chủ, Đông phương trọng thống thuộc”, “3/ Tây phương quý tấn thủ, Đông phương quý an phận”. Nội dung thứ hai trong các điểm so sánh này, − “trọng tự chủ” chính là nói về chủ nghĩa cá nhân.
Phan Khôi viết:
Chữ tự chủ ở đây nghĩa là mỗi người làm chủ lấy mình, cũng tức là cá nhân chủ nghĩa. Ở phương Tây, nói rằng “một người”, nghĩa là đối với thế giới, đối với quốc gia mà nói, chớ không phải phiếm nhiên. Đã gọi là người, thì người nào cũng vậy, ai ai cũng có cái địa vị cái tư cách đối với thế giới đối với quốc gia, thật như ta thường nói "đội trời đạp đất ở đời". Như vậy, người nào tự chủ lấy người ấy, không ai thuộc về ai cả.
Bởi đó mới có sự tự do. Một người đã tới tuổi thành nhân rồi thì không còn ở dưới quyền cha mẹ nữa. Mà cũng không ở dưới quyền chánh phủ hay là dưới quyền ông nguyên thủ, song chỉ ở dưới quyền pháp luật. Một người được y theo trong vòng pháp luật mà tự do. Pháp luật cho mọi người được tư tưởng tự do, ngôn luận tự do, cư trú tự do,... những quyền tự do ấy, người khác − dầu là cha mẹ nữa − không được can thiệp đến. Pháp luật đặt ra cốt là hạn chế sự tự do của từng người để binh vực sự tự do cho từng người.
Lại bởi đó mới có sự bình đẳng. Mọi người đối với quốc gia xã hội đều có nghĩa vụ và quyền lợi bằng nhau. Ai nấy đều phải nộp thuế, đều phải đi lính, thì ai nấy đều được hưởng quyền tự do của pháp luật. Trước mặt pháp luật, ai cũng như nấy, hễ có tội thì bị phạt, không cứ ông nguyên thủ hay là người bình dân. Pháp luật đặt ra cũng cốt để duy trì sự bình đẳng giữa từng người.


Tất nhiên cái chủ nghĩa cá nhân với nội hàm như vậy không phải vốn dĩ đã có từ xa xưa ở các nước phương Tây, mà chỉ mới hình thành từ thời Khai sáng rồi định hình dưới các xã hội theo kinh tế tư bản thị trường, dưới các chính thể cộng hoà pháp trị. Nhưng Phan Khôi không bàn về phương diện lịch sử của phạm trù chủ nghĩa cá nhân ở xã hội phương Tây; ông chủ yếu trình bày nội dung sự việc ở mặt đồng đại, hơn nữa, nhấn vào trạng thái đương đại, chỉ ra sự tương đồng giữa chủ nghĩa cá nhân với cơ chế chính trị ở các nước phương Tây:
Bởi mỗi người đều có địa vị tư cách vững vàng, tự chủ lấy mà không xâm phạm đến ai như vậy, cho nên khi hiệp với nhau thành đoàn thể thì chỉnh tề và ổn kiện lắm. Quốc gia, tức là của chung của quốc dân; hội xã tức là của chung của hội viên; đối với quốc gia xã hội ai có bổn phận gì thì làm hết bổn phận ấy, có lợi ích thì mọi người cùng hưởng. Mới nghe họ nói những là "quốc gia lợi ích, xã hội lợi ích" thì tưởng là xung đột với chủ nghĩa cá nhân, mà xét kỹ ra thì những cái lợi ích ấy cũng chỉ là lợi ích cho từng người vậy.
Các nước bên Tây đều dùng cái chánh thể lập hiến, cộng hoà được, là nhờ họ sẵn có cái tư tưởng như đã nói trên đó. Cái tư tưởng ấy tức là cái tinh thần dân chủ.


Để làm rõ sự khác biệt giữa tính tự chủ, − tức là đặc điểm chính của con người cá nhân Tây phương, − so với tính chất “thống thuộc” ở đơn vị tương đương của phương Đông, Phan Khôi chỉ rõ cái đặc điểm mà sau này một số nhà nghiên cứu sẽ mô tả như là “con người chức năng”. Ông viết:
Theo cái ý nghĩa của chữ “một người” ở phương Tây, thì ở phương Đông, trừ ông vua ra, hầu như không có “người” nào hết. Bởi vì “xuất thổ chi tân, mạc phi vương thần”, ai cũng là thần thiếp của vua, ai cũng là dân của vua. Cứ như sách dạy, nhân thần không được tư giao với ngoại quốc, ấy là không có tư cách đối với thế giới; thứ nhân không được nghị luận việc chánh, ấy là không có tư cách đối với quốc gia. Bởi vậy ai nấy đều phải nộp của cải cho vua, nộp cả đến thân mình nữa; vua thương thì nhờ, bằng vua không thương mà giết đi cũng phải chịu. Như vậy gọi là trọn cái bổn phận thờ bề trên; như vậy gọi là thiên kinh địa nghĩa.

Không những thuộc về vua mà thôi, ai còn có cha mẹ đến chừng nào thì phải kể cái thân mình là của cha mẹ đến chừng nấy. Lại không những cái thân mà thôi, mình dầu có của cải, có vợ con, cũng phải kể là của cha mẹ. Theo Kinh Lễ dạy: con yêu vợ mà cha mẹ ghét thì con phải để [= bỏ] vợ đi; con ghét vợ mà cha mẹ yêu thì con phải hoà thuận với vợ. Lại dạy: có dư của thì nộp cho tông, thiếu thì lấy của tông. Tông là người tông chủ trong gia đình, tức là cha mẹ. Còn chưa kể đến những lời tục thường nói "Cha mẹ đặt đâu ngồi đó, bảo chết hay chết, bảo sống hay sống" thì lại còn nghiêm khắc quá nữa.
Trọng nhứt là vua và cha mẹ, rồi thứ đến quan, làng, họ, cũng đều có quyền trên một người. Quan, nào có phải một ông, có đến năm bảy lớp, cứ dùi đánh đục, đục đánh săng, rút lại trăm sự chi cũng đổ trên đầu người dân cả. Người trong làng thì kể như con của làng, cho nên nói rằng "con làng nhờ làng". Người trong họ đối với họ cũng vậy.


Phan Khôi tóm tắt về tính chất thống thuộc của con người chức năng phương Đông:
Ấy vậy, lấy ra một người ròng rặt Đông phương mà nói, thì người ấy không tự mình làm chủ lấy mình được; song là thuộc về vua, về cha mẹ, về quan, về làng, về họ, nếu là đàn bà thì còn thuộc về chồng nữa.
Bởi cớ ấy, trong xã hội ta như một cái thang có nhiều nấc. Nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người không đồng nhau: người trên đối với người dưới không có nghĩa vụ; còn ai có nhiều quyền hơn thì được hưởng nhiều lợi hơn. Pháp luật đối với mọi người thì tùy từng bậc mà khác: cùng phạm một tội mà dân bị phạt trọng [= nặng], quan được phạt khinh [= nhẹ]; cùng phạm một tội mà kẻ thứ ấu bị phạt trọng, kẻ tôn trưởng được phạt khinh. Theo Tây phương, như thế là bất bình đẳng; song theo Đông phương thì như thế là có trật tự.


Ông trở lại sự so sánh hai kiểu xã hội phương Tây, phương Đông, ứng với hai kiểu đơn vị con người:
Một đằng thì trọng tự chủ, một đằng thì trọng thống thuộc, hai đằng tư tưởng khác nhau, cho nên trình bày ra hai cái xã hội khác nhau. Xã hội Tây phương thì như bầy chim sẻ, con nào cũng một lứa như con nào, và con nào cũng tự kiếm ăn cho con nấy, song cũng hiệp nhau thành bầy. Xã hội Đông phương thì như bầy kiến, có con lớn con nhỏ, con lớn giữ phần cai quản, con nhỏ lo việc đi kiếm ăn, song cũng hiệp nhau thành bầy.

Như vậy có thể thấy là ở bài viết kể trên, Phan Khôi đã ghi nhận chủ nghĩa cá nhân của phương Tây như một quan niệm và một thực tiễn đời sống xã hội; quan niệm về tính chất, về quyền và lợi ích của đơn vị con người trong các xã hội phương Tây, và phù hợp với nó là quy chế tổ chức của xã hội phương Tây, ở đương thời Phan Khôi, tức là những năm 1920, xét trên những nét bao quát nhất.
Những nét chính yếu của chủ nghĩa cá nhân ở phương Tây, theo sự lĩnh hội của Phan Khôi ở bài báo nói trên, là sự độc lập, tự chủ, tự do, bình đẳng − đối với nhau và đối với các thiết chế xã hội − của mọi con người thành niên; theo Phan Khôi, quan niêm ấy chứa đựng tinh thần dân chủ, vì vậy, nó là cơ sở của thể chế lập hiến, của chính thể cộng hoà.

Mấy năm sau, trong một bài báo nhan đề “Cá nhơn chủ nghĩa” (Trung lập, S.G., 28/11/1931), Phan Khôi đề cập đến tư tưởng chủ nghĩa cá nhân trong sự liên hệ của nó với “sự thiệt hành cái chủ nghĩa dân trị hay là biết hưởng sự lợi ích của cái chủ nghĩa ấy” [7] tức là bàn về sự liên quan giữa tư tưởng dân chủ với tư tưởng chủ nghĩa cá nhân. Hơn thế, lần này vấn đề được Phan Khôi nêu ra với chính con người và xã hội Việt đương thời ông.
Trong xã hội ta ngày nay có một phần rất đông người khuynh hướng về chủ nghĩa dân trị (démocratie). Chẳng những người có học thức mới như thế; trong đám bình dân, kém học thức mà mở miệng ra cũng ưng nói bình đẳng tự do. Sự khuynh hướng đó, không phải là sự bắt chước nói theo mà thôi đâu; họ muốn thiệt tình, vì họ ở dưới chính thể chuyên chế đã lâu, gần đây lại gặp lấy phong trào ở ngoài làm như thúc giục họ,
… (Bị kiểm duyệt bỏ).
Tuy vậy, họ ham muốn cái chủ nghĩa dân trị thiệt tình, mà làm thế nào cho được thiệt hành cái chủ nghĩa ấy thì hình như ít ai suy nghĩ tới. Mà cũng đừng nói đến sự thiệt hành nữa, giá có ai thiệt hành rồi để sẵn cho họ hưởng, là cũng chưa chắc họ biết hưởng đâu.


Phan Khôi ghi nhận sự tiến bộ về nhiều mặt của con người Việt đương thời ông, kể cả về tư tưởng xã hội, chính trị. Ông ghi nhận “mấy năm gần đây người mình quả có phát đạt về tư tưởng quốc gia”, song ông nghi ngờ khả năng thực hành tư tưởng dân chủ của đồng bào đương thời mình, thậm chí cho rằng họ chưa biết “hưởng sự lợi ích” của chủ nghĩa dân chủ.
Vì sao vậy? Vì theo ông, chủ nghĩa dân trị (= dân chủ) trong đời sống quốc gia chỉ có thể được thực hành bởi những người dân đã sống theo chủ nghĩa cá nhân (với những hàm nghĩa như ông đã nói ở bài trên); thế mà ở xã hội của chúng ta thì chưa hề có cái chủ nghĩa cá nhân đó; như vậy thật khó nói đến chuyện dân trị.
Muốn thực hành cái chủ nghĩa dân trị trong một nước nào thì người làm dân trong nước ấy trước phải thực hành cái cá nhân chủ nghĩa (individualisme) mới được. Mà cái cá nhân chủ nghĩa ấy, ở nước ta xưa nay chưa hề có, cho đến ngày nay cũng chưa thấy mấy ai đề xướng ra, thế mà nói chuyện dân trị, ôi, có dễ dầu gì!


Phan Khôi trình bày sơ lược nội dung cái “chủ nghĩa cá nhân” ấy, theo cách hiểu của ông:
Cá nhân chủ nghĩa là hết thảy người trong nước, mỗi người đều độc lập về phần mình; mà độc lập cả hai đường: về tinh thần và về vật chất vậy. Độc lập về tinh thần, tức là mỗi người đều biết tự suy nghĩ lấy, tự phán đoán lấy, nhắm lẽ phải ở đâu thì theo đó, chớ không làm nô lệ cho ý kiến của người nào hay đảng phái nào. Độc lập về vật chất tức là độc lập về kinh tế, mỗi người đều làm lấy mà nuôi sự sống mình, chớ không chịu nhờ vả ai, dầu con cũng không nhờ cha, vợ cũng không nhờ chồng.
Có độc lập như vậy rồi mới nói chuyện hiệp quần được. Sự hiệp quần ví dụ cũng như khi có bão to mà đông người đứng ra, giăng hàng chữ nhứt để đón gió. Trong hàng chữ nhứt đó, người nào người nấy phải có sức mạnh mà trụ chưn cho vững thì mới được. Bằng chẳng vậy, trong đó hết già nửa người yếu, chỉ dựa vào mấy người mạnh kia, thì cái hàng chữ nhứt ấy sẽ không cự với gió được mà lại ngã làm một cùng nhau. Bởi vậy, trước khi hiệp quần phải cần cho mỗi người độc lập, tức là thiệt hành cái chủ nghĩa cá nhân”.

Theo Phan Khôi, nội dung ấy của chủ nghĩa cá nhân chưa hề có trong xã hội Việt , từ xa xưa cho đến thời ông:
Xã hội ta xưa nay chưa hề chiêm bao tới cái sự độc lập đó! Ấy chẳng đáng trách gì, cũng tại cái luân lý và cái chế độ kinh tế của ta nó ngăn cấm ta, không cho mộng tưởng tới đó thôi. Theo đức Khổng Tử, “cha chết ba năm rồi mà không đổi cái cách cuộc ăn ở của cha, như vậy gọi là hiếu”. Thế thì bao nhiêu những kẻ còn có cha phải vâng lời cha, phải tuân mạng lịnh của cha, là sự mà luân lý bắt buộc, đã rõ ràng lắm rồi. Lại còn theo cái chế độ đại gia đình, một người làm, nuôi không biết mấy người, như vậy là kẻ nầy phải nhờ kẻ kia mà sống, đường kinh tế không độc lập.
Theo luân lý và chế độ ấy thì sống làm “thần dân” dưới chánh thể chuyên chế mới được, chớ còn mong thiệt hành chủ nghĩa dân trị hay là hưởng sự lợi ích của nó, có được đâu?


Bài báo “Cá nhơn chủ nghĩa” ấy, Phan Khôi viết nhân đọc bài diễn thuyết của viên Tổng trưởng Bộ Thuộc địa trong chính phủ Pháp là Paul Reynaud khi ông ta sang công cán xứ Đông Dương thuộc địa (1931). Cái ý mà Phan Khôi muốn nhắc tới là nhận xét của Paul Reynaud: “Nước An Nam chưa có cái cá nhân chủ nghĩa thì cũng chưa cho họ hưởng cả sự lợi ích của dân chủ được đâu”. Từ lập luận về quan hệ thiết yếu giữa chủ nghĩa cá nhân của công dân và tính chất dân chủ của thiết chế xã hội, Phan Khôi tán thành sự khuyến dụ của viên chức người Pháp nọ:
Tôi nhận cho lời quan Tổng trưởng nói đó là một bài học hay cho người Việt Nam, nếu chúng ta muốn hưởng sự tự do bình đẳng sau nầy thì ngay từ đây ta phải, theo lời ngài, làm cho cái cá nhân chủ nghĩa nó nẩy nở ra trong xã hội ta mới được.

Trên đây tôi nói kỹ về hai bài báo của Phan Khôi trong đó bàn rõ về nội dung của phạm trù chủ nghĩa cá nhân của tư tưởng phương Tây, về sự liên quan chặt chẽ giữa chủ nghĩa cá nhân ở con người công dân với tinh thần dân chủ trong các thiết chế xã hội chính trị; và nhân bàn về việc đưa tinh thần dân trị vào xã hội Việt Nam, Phan Khôi nhấn mạnh rằng một trong những điều kiện thiết yếu là phải phổ cập nội dung chủ nghĩa cá nhân vào đơn vị con người của xã hội ta.

Cần phải nói rằng những luận điểm chính như vừa dẫn trong hai bài báo trên cũng được Phan Khôi thể hiện thường xuyên trong nhiều bài viết khác, kể cả loại bài mang tính chất hài đàm, nhàn đàm, tạp trở, dật sự,… Hơn thế, ở phương diện vận động phổ biến các nội dung của chủ nghĩa cá nhân đó vào xã hội người Việt đương thời mình, Phan Khôi đã tự chứng tỏ là một trong những nhà ngôn luận đi tiên phong, với việc biện luận và đề xuất các nội dung của vấn đề nữ quyền, [8] hoặc biện luận và đề xuất việc chuyển từ mô hình đại gia đình sang mô hình gia đình hạt nhân trong xã hội người Việt. [9] Nhìn lại cả quá trình vận động tư tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XX, hậu thế chúng ta có đủ căn cứ để xem Phan Khôi như một trong những nhà lý luận sâu sắc về quyền con người trong đời sống hiện đại. Cách mô tả nội hàm phạm trù chủ nghĩa cá nhân như trên của Phan Khôi chắc chắn không phải là kết quả sự hiểu sai đọc lệch nào, càng không phải do bị tuyên truyền huyễn hoặc, mặc dù ngày nay đọc lại, người nghiên cứu và cả người đọc thông thường đều dễ thấy rõ nó khác hẳn so với cách mô tả khác, phổ biến hơn, theo đó phạm trù chủ nghĩa cá nhân (individualisme) bị quy vào chủ nghĩa ích kỷ (egoisme).

2. Tất nhiên cách hiểu như trên về chủ nghĩa cá nhân, không phải là cách hiểu riêng của một mình Phan Khôi. Vả lại, như Phan Khôi đã có nói đến, chủ nghĩa cá nhân không phải là đặc sản phương Tây theo cái nghĩa là nó không thể nảy nở ở các xã hội ngoài phương Tây. Chủ nghĩa cá nhân không phải là thuộc tính dân tộc, chủng tộc, cũng không phải đặc tính văn hoá vùng miền. Điều được nhấn mạnh là nên hiểu chủ nghĩa cá nhân vừa như là điều kiện vừa như là sản phẩm của quan hệ kinh tế xã hội, của thiết chế xã hội. Vì vậy nó có thể nảy nở ở những vùng miền khác, ngoài phương Tây, tức là cả ở phương Đông.
Một trong những đoạn trích dẫn trên đã hé cho biết, Phan Khôi là người thấy rằng ở xã hội người Việt đương thời mình chưa thể thực hiện nền dân chủ, mà một trong những lý do trọng yếu là con người ở đây chưa hấp thụ và thực hành chủ nghĩa cá nhân; và Phan Khôi thấy rằng nếu muốn Âu hoá, hiện đại hoá xã hội cổ xưa này thì một trong những điều cần thiết là làm cho chủ nghĩa cá nhân nảy nở ở đơn vị con người của xã hội này.

Phan Khôi mới chỉ tin vào sự tất yếu của sự gieo trồng chủ nghĩa cá nhân vào xã hội ta nếu muốn dân chủ hoá xã hội ta, chứ thật ra ông chưa tỏ vẻ tin tưởng rằng cái quá trình ấy sẽ có thành tựu.
So với ông, có những người tin tưởng hơn nhiều; họ tin rằng có thể gieo trồng chủ nghĩa cá nhân, gieo rắc tư tưởng về nhân quyền tự do vào xã hội phương Đông, xã hội người Việt này. Những người tin như thế, đương thời Phan Khôi, thậm chí sớm hơn, trước hết, đó là các nhà thực dân người Pháp. Ý tôi muốn nói đến những quan chức hàng đầu được cử sang cai quản xứ thuộc địa này.
Theo tôi nhớ thì sử học của ta chưa cung cấp được những kết quả nghiên cứu khả thủ về phương diện chủ thuyết, nhận thức chủ quan của các nhà cai trị đến từ Pháp về mục đích của cái sự nghiệp được gọi, − hoặc theo lối chính thống hoặc theo lối mai mỉa, − là “khai hoá” của họ. Những gì tôi trình bày tiếp đây chỉ là một tư liệu cụ thể, có lẽ chưa có giá trị đại diện. Tôi muốn dẫn ra sau đây cách hiểu của Albert Sarraut (1872-1962), từng là Toàn quyền xứ Đông Dương thuộc Pháp (1912-1919).

Trong một buổi diễn thuyết ở Hà Nội vào khoảng đầu năm 1919, A. Sarraut cho rằng một trong những lý tưởng, chính sách của nước Pháp ở Đông Dương là tác động để gây ra “cái tư tưởng về nhân quyền (le droit de homme), về cái quyền của con người ta”. [10]
A. Sarraut nhận định về trạng thái của đơn vị con người ở xã hội người Việt cổ truyền:
Trước khi người Đại Pháp sang Đông Dương này thì dân An Nam tuy là một dân tộc có văn hiến, đã có pháp luật khôn ngoan của vua hiền chúa giỏi đặt ra, song cũng ví như một đám đông chưa thành hình (masse amorphe), còn chìm đắm vào trong đoàn thể, người ta còn ngập vào trong đám đông, như cái cây lẫn trong rừng lớn vậy. Cái giá trị của người ta (la valeur humaine), nghĩa là những quyền lợi của mỗi người cùng là phép luật để giữ cho những quyền lợi ấy, còn hầu như chưa có. Người ta đối với quốc gia chẳng qua là một chút mảy may, cũng ví như một hột cát trong đống cát vậy. Cái đám người đông u u âm âm ấy đã mấy mươi đời nay vẫn cứ chịu ép một bề mà theo cái quyền chuyên chế của người trên, dù cái quyền ấy sai khiến thế nào mặc lòng, bắt sống phải sống bắt chết phải chết, dẫu lạm dụng quá độ cũng không biết tố cáo vào đâu, vì trên ông vua không còn có cái quyền nào cao hơn nữa. Người ta an toàn được chỉ là nhờ ở cái bụng tốt, cái chí công, cái lòng nhân từ của ông vua cầm quyền đó, cùng những người khâm mạng vua mà thi hành cái quyền đó. Gặp được vua hiền quan giỏi thì cái nhân thân của mình được trọn vẹn, gặp phải vua xấu quan xằng thì khó lòng mà giữ cho trọn được. Đối với cái quyền tối cao tuyệt đối ấy thì không còn có pháp luật nào mà tố cáo được nữa.


Một trạng thái như vậy, theo Sarraut, vốn thuận lợi cho các nhà thực dân:
Chắc rằng một cái tình trạng như vậy thì dễ việc cai trị cho quân quyền nhiều lắm, vì dân chỉ là một cái lũ đã sẵn lòng phục tòng, không phải là những người đã có quyền lợi riêng; bởi dễ dàng cho việc cai trị như vậy nên chính các quan cai trị Pháp cũng thường muốn theo lối cũ mà cứ giữ y nhiên như vậy, lấy làm tiện lợi nhiều, vì chỉ phải can thiệp với cả đoàn thể mà không quản gì đến quyền lợi riêng của mỗi người.

Tuy nhiên, lý tưởng của những người Pháp đến chinh phục xứ này, theo Sarraut, lại là làm cho đơn vị cá nhân (individu) của con người hiện diện ra với tất cả giá trị và quyền lợi của nó. Ông ta ví công việc tác động ấy như của người thợ nặn:
Cái tay nước Pháp lấy cái đất nước ấy mà nặn lên thành những người có nhân cách, để giữ được quyền lợi, vì đã có pháp luật cao hơn mà che chở cho.
Cố nhiên nhà chính trị phải lập tức trở lại câu chữ khái quát:
…. Muốn nói cho đúng hơn thì phải nói rằng nước Pháp vẫn dụng công để gây cho người An có cái nhân cách hoàn toàn ấy. Vì cái công nghiệp nước Pháp về đường ấy chưa phải đã xong đâu; còn phải lâu dài nữa rồi mới mong tới ngày trong suốt cõi nước này cái công tạo thành ra nhân cách có đủ quyền lợi pháp luật ấy sẽ được hoàn toàn và sẽ được hiển nhiên công nhận vậy. Hiện nay còn gặp nhiều sự ngăn trở lắm, hoặc bởi phong tục, hoặc bởi quyền thế, hoặc bởi cái trình độ giáo dục trong dân còn kém, hoặc bởi những lề thói cổ tự đời nào đến giờ làm ngăn trở sự tiến bộ, ngại đường công lý. Nhưng cái nguyên lý cốt yếu thì hiện nay đã phát minh ra rõ ràng rồi, cái nguyên lý ấy là thế này: người bản xứ ở đây cũng là người, cũng có nhân cách như mọi người khác, như người Âu châu chúng tôi vậy. Nhân cái nguyên lý đó, thì nước Pháp cùng những người khâm mạng nước Pháp để cai trị ở đây, vẫn hết sức làm cho vững bền, cho rõ tỏ những quyền pháp để bảo toàn cho người ta, những kế hoạch để giữ gìn cho cái nhân thân, sự tự do, cái sinh mệnh, sự tài sản của người ta cùng là giúp cho người ta về thân thể, về tinh thần, mỗi ngày một phát đạt thêm lên, sau này được sung sướng hơn lên, và, hoặc giả có bị xâm phạm đến những quyền lợi cùng tư cách ấy thì có chỗ mà kháng cáo được. Ấy, cái mục đích cao thượng của công nghiệp nước Pháp là ở đó…

Trên đây tôi đã trích dẫn giới thiệu quan điểm một nhà cầm quyền Pháp về công việc được xem như “mục đích cao cả” của mình: phổ cập chủ nghĩa cá nhân vào xã hội người Việt. Ngôn ngữ quan phương của ông quan lớn nhất, đứng đầu bộ máy cai trị xứ thuộc địa, đã khiến những lời lẽ trên đây bị quá tải những thiện ý và tính chính nghĩa; song le điều đó cũng không làm cho nó trở nên vô nghĩa hoàn toàn; ít ra trong đó cũng vẫn còn một vài phần sự thực.
Điều tôi lưu ý ở ví dụ vừa trích dẫn từ viên cựu toàn quyền kia là những nội dung căn bản của phạm trù chủ nghĩa cá nhân mà ông ta diễn đạt, lại có sự phù hợp trên nét lớn với những nội dung mà ta thấy Phan Khôi đã diễn đạt.
Tôi sẽ loại bỏ ngay khả năng Phan Khôi là kẻ hâm mộ viên chức kia. Chính trong năm 1919, Phan Khôi đã lên tiếng mỉa mai cái ngôn từ “xin chính quốc cho Đông Dương được tự trị” của toàn quyền A. Sarraut. [11]
Bởi vậy, sự phù hợp này chẳng qua chỉ cho thấy có phần chắc là Phan Khôi đã đọc đúng cái nội dung chủ nghĩa cá nhân của xã hội phương Tây đương thời ông; đọc đúng ở đây có nghĩa là diễn đạt lại cho người đọc Việt Nam bằng tiếng Việt đúng cái quan niệm về nhân quyền, về quyền và lợi ích của cá nhân mỗi con người, tức là về chủ nghĩa cá nhân mà ở xã hội Tây phương đương thời ấy người ta đang chủ trương và đang sống trong những nguyên tắc của nó.

3. Ngày nay, ở đầu thế kỷ XXI này, chúng ta biết rằng chủ nghĩa cá nhân và thể chế dân chủ đã không còn là đặc sản của riêng các xã hội phương Tây.
Tuy vậy, trên quy mô toàn hành tinh tức là toàn nhân loại, những vấn nạn về quyền con người, thậm chí, những thảm hoạ nhân đạo vẫn chưa hết tính nguy cơ thường trực của chúng.
Ở một phương diện khác, người ta vẫn chưa thôi tranh cãi về những hàm nghĩa và ranh giới của quan niệm về nhân quyền. Các chính thể toàn trị, để tự biện hộ cho độc quyền hạn chế và kiểm soát tự do của công dân thuộc quyền mình, đã ra sức nhấn mạnh đặc tính dân tộc, đặc tính văn hoá vùng lãnh thổ của các quan niệm về quyền con người. Ở những nước được coi là phát triển nhất vẫn thấy nảy sinh những hiện trạng thoái hoá hoặc biến dạng của nhân tính. Do vậy, những vấn đề về chủ nghĩa cá nhân, về nhân quyền chưa bao giờ mất tính thời sự của mình.

Ở Việt Nam, cách hiểu chủ nghĩa cá nhân như Phan Khôi mô tả từ những năm 1920-1930, đã không trở thành cách hiểu chủ đạo. Thay vào đó, cách hiểu mang tính lược quy chủ nghĩa cá nhân vào chủ nghĩa ích kỷ, vị kỷ, lại trở thành dòng hiểu biết chính thống; chủ nghĩa cá nhân trở thành đối tượng bị kêu gọi “khắc phục” nhân danh đạo đức xã hội; sự đả kích quan niệm cá nhân thậm chí thấm đẫm vào ngôn trò chuyện thường ngày v.v… Giới nghiên cứu quốc tế nhận xét rằng “chủ nghĩa cá nhân bị phê phán nặng nề nhất ở các nước Đông Á, nơi mà các hành vi vị kỷ, theo truyền thống, bị xem là những hành vi phản bội”. [12]
Trong một tình hình tri thức như vừa mô tả, dù chỉ xoay quanh một phạm trù hiểu biết xã hội, tôi nghĩ, cách hiểu và sự mô tả chủ nghĩa cá nhân như trên của Phan Khôi, từ cách nay 70 – 80 năm, vẫn còn có thể gây tranh luận đến tận hôm nay. Đó là điều cho thấy sức sống, cho thấy ý nghĩa thời sự hiện đại trong trứ tác của ông.
Hà Nội, 10/4/2008
L.N.A
(nguồn: TCSH số 235 - 9 - 2008)
------------------
[1] C.D., “Học thuyết cũ với vận mạng mới nước Tàu”. Đông Pháp thời báo, S.G., 26/7/1928. Xem trong sách: Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1928 (Lại Nguyên Ân sưu tầm biên soạn), Đà Nẵng, 2003, tr. 114-118.
[2] C.D., “Mấy lời kết luận về Cô Hồng Minh và cái thuyết Âu châu sắp tan nát”. Đông Pháp thời báo, S.G., 15/9/1928. Xem trong sách: Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1928 (Lại Nguyên Ân sưu tầm biên soạn), Đà Nẵng, 2003, tr. 119-122.
[3] Phan Khôi, “Cái ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta”. Thần chung, S.G., từ 3/10/1929 đến 18/11/1929. Xem trong sách: Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1929 (Lại Nguyên Ân sưu tầm biên soạn), Đà Nẵng-Hà Nội, 2005, tr. 40-102.
[4] Xem chú thích 2.
[5] Phan Khôi, “Vấn đề cải cách”. Trung lập, S.G., 9/8/1930; 12/8/1930; 13/8/1930; 18/8/1930. Xem trong sách: Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1930 (Lại Nguyên Ân sưu tầm biên soạn), Hà Nội, 2006, tr. 371-384.
[6] Xem trong sách: Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1928 (Lại Nguyên Ân sưu tầm biên soạn), Đà Nẵng, 2003, tr. 101-109.
[7] P.K., “Cá nhơn chủ nghĩa (Một bài học của quan Tổng trưởng Paul Reynaud cho người Việt )”. Trung lập, S.G., 28/11/1931). Xem trong sách: Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1931 (Lại Nguyên Ân sưu tầm biên soạn), Hà Nội, 2007, tr. 251-253.
[8] Ví dụ loạt bài về đề tài phụ nữ đăng trên Phụ nữ tân văn: “Tơ hồng nguyệt lão với hôn nhân tự do”; “Chữ trinh: cái tiết với cái nết”; “Luận về phụ nữ tự sát” (xem trong sách: Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1929 đã dẫn trên); “Hoàng đế với phụ nữ”; “Lại hoàng đế với phụ nữ” (xem trong sách Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1930 đã dẫn trên); “Tống Nho với phụ nữ” (xem trong sách Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1931 đã dẫn trên).
[9] Ví dụ loạt bài về các vấn đề gia đình đăng trên Phụ nữ tân văn: “Gia đình ở xứ ta, nay cũng đã thành ra vấn đề rồi;” “Cái chế độ gia đình ở nước ta, đem gióng với luân lý Khổng-Mạnh”; “Sự lập thân của thanh niên nam nữ đời nay”; “Lại nói về tam cang với ngũ luân”; “Một cái hại của chế độ đại gia đình: bà già với nàng dâu” (xem trong sách: Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1931 đã dẫn trên)
[10] Dẫn theo bài: “Đại Pháp đã làm cho ta có nhân cách”. Trung Bắc chủ nhật, Hà Nội, 3 Mai 1919, tr. 1.
[11]Chương Dân: “Giải đại ý bài diễn thuyết của quan Toàn quyền Sarraut về cuộc Đông Dương tự trị”. Lục tỉnh tân văn, S.G., 14/5/1919; 21/5/1919.
[12]wikipedia.org/chủ nghĩa cá nhân/ các quan điểm đối lập.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.

  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.