Khác với mọi lần, năm nay, tin nhà văn Pháp Patrick Modiano được Viện Hàn lâm Thụy Điển chọn trao giải thưởng Nobel Văn học có phần làm cho báo chí, truyền thông ngoài nước Pháp ngỡ ngàng.
Tháng 10 năm nay, Viện Hàn lâm Thụy Điển đã quyết định trao giải Nobel Văn chương cho nhà văn Patrick Modiano “vì cái nghệ thuật của kí ức mà ông đã vận dụng để gợi lên những phận người bẽ bàng, khó thỏa nguyện nhất
Thật vậy, cả ở châu Âu và Mỹ, cái tên Patrick Modiano hình như khá xa lạ. “Modiano (...) nổi tiếng ở Pháp, nhưng ở đây, hầu như không ai nghe nói đến ông,” Alexandra Schwarz viết trên tạp chí văn học nổi tiếng New Yorker. Tờ Times giật tít “Tại sao bạn chưa bao giờ nghe nói đến Patrick Modiano?” và viết rằng sự lựa chọn này làm cho độc giả Mỹ “bối rối”, kể cả những người say mê văn chương nhất. Một số nguồn như BBC và New York Times thì đành chỉ lặp lại lời đánh giá của Viện Hàn lâm Thụy Điển, mô tả nhà văn Pháp thứ 15 đoạt giải Nobel Văn học như “một Marcel Proust của thời đại chúng ta.” Thậm chí một số trang mạng ở Mỹ như The Daily Beast, LA Times còn giật tít: “Vậy Patrick Modiano là ai?”
Từ cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 của thế kỷ trước, độc giả Việt Nam đã tìm thấy một phần câu trả lời ở hai tác phẩm của ông: Những đại lộ ngoại vi, Phố những cửa hiệu u tối do tác giả bài viết này chuyển ngữ sang tiếng Việt.
Jean Patrick Modiano sinh ngày 30/7/1945 ở Paris. Cha ông là người suốt đời phiêu bạt và mẹ ông là một nữ diễn viên quanh năm lưu diễn, cậu bé Patrick có một tuổi thơ hầu như hoàn toàn vắng thiếu tình phụ mẫu. Sau một thời gian sống với ông bà ngoại, Modiano không ngừng bị luân chuyển hết nhà ký túc này đến trú xá kia. Không khó hiểu khi một tuổi thơ bất hạnh như vậy tạo nên tâm thế khiến Modiano muốn tìm đến nghiệp viết văn như một giải thoát. Và người đưa Modiano vào môi trường văn chương nghệ thuật chính là Raymond Queneau, một kiện tướng của nhóm Oulipo trứ danh và trào lưu Tiểu thuyết Mới.
Năm 1968, ra mắt với cuốn tiểu thuyết đầu tay Quảng trường Ngôi Sao (La Place de l’Étoile), chàng trai 23 tuổi Modiano lập tức được chào đón như một sự kiện của văn học Pháp đương đại: cùng một lúc, tác phẩm giật hai giải thưởng văn học Roger Nimier và Fenéon đầy uy tín. Sau cuốn thứ hai, Tuần tra đêm (La ronde de nuit - 1969), và một quãng lặng sáu năm, tác phẩm thứ ba của ông, Những đại lộ ngoại vi (Les boulevards de ceinture - 1975) được Viện Hàn lâm Pháp tặng giải thưởng lớn về tiểu thuyết. Và ba năm sau, Giải Goncourt, giải văn học quan trọng nhất của Pháp, được trao cho ông với cuốn Phố những cửa hiệu u tối (Rue des Boutiques obscures). Từ đó, đều đặn, mỗi năm ông cho ra một tác phẩm, trong đó có thể kể: Biệt thự buồn (Villa triste), Sổ gia đình (Livret de famille), Một thời thanh xuân (Une jeunesse), Những chàng trai tốt biết mấy (De si braves garcons), Khu phố hẻo lánh (Quartier perdu), Phòng để quần áo thời ấu thơ (Vestiaire de L'enfance), Chuyến du hành tân hôn (Voyage de noces), Một gánh xiếc đi qua (Un cirque passe), Cô Bé Nữ Trang (La Petite Bijou), Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối (Dans le café de la jeunesse perdue), Chân trời (L’horizon), Cỏ đêm (L’Herbe de nuit)... Cuốn tiểu thuyết mới nhất của ông, Để em khỏi bị lạc trong khu phố (Pour que tu ne te perdes pas dans le quartier), xuất bản vào đầu mùa sách năm 2014, được giới phê bình xếp vào một trong năm tác phẩm tiêu biểu của Modiano.
Một điều rất đặc biệt ở Modiano: ông sinh năm 1945 khi Thế Chiến II vừa kết thúc, nhưng ưu tâm văn học của ông lại chốt vào thời kỳ nước Pháp bị phát-xít Đức chiếm đóng (1940-1944). Nhà văn tìm kiếm gì trong hình ảnh nước Pháp bại trận ấy? Ngay từ đầu, hệ chủ đề (thématique) của Modiano đã được xác định với hai chủ đề khắc khoải xuyên suốt đời văn của ông: 1/ khảo sát quá khứ, đi tìm bản ngã (của mình và của những người xung quanh mình); 2/ sự bất lực không thể hiểu những hỗn mang của thời đại, luôn che khuất quá khứ. Tiểu thuyết của Modiano không bao giờ quá 200 trang khổ trung bình, nhiều khi mượn cái thủ pháp “treo lửng” của tiểu thuyết trinh thám để giữ người đọc hồi hộp đợi chờ. Văn phong Modiano giản dị, không khó đọc, và thường đượm một nét buồn xa vắng, để lại dư vị nao lòng, những trang viết thao thức đầy ám ảnh dai dẳng triền miên của quá khứ. Hình như mối ưu tâm của Modiano đối với quá khứ có một cái gì khiến ta nhớ đến Marcel Proust, nhưng khắc khoải hơn, hoang mang hơn ở tác giả Tìm lại thời gian đã mất. Ra đời vào lúc kết thúc Thế chiến II, Modiano thuộc một thế hệ chỉ biết về chiến tranh qua những vang vọng xa nhòa, song cách nào đó, dấu vết của những cơn binh lửa trên quy mô hành tinh lại hằn sâu trong tâm thức ông như một ám ảnh thường trực. Không phải tình cờ mà người ta gọi Modiano là nhà khảo cổ hồi ức.
Patrick Modiano một mình chiếm một vị trí riêng biệt trên văn đàn Pháp. Ngay từ năm 1981, tuần báo Nouvelles Littéraires (Tin văn học) đánh giá ông “là người tuyệt vời nhất, kỳ diệu nhất và chắc chắn là có tài nhất trong các nhà văn trẻ của nước Pháp” (số 2774 năm 1981). Giới phê bình Pháp coi ông trước hết như là người lật nhào các quy tắc của tiểu thuyết tiên phong mới. Điều làm cho Modiano trở thành gương mặt độc đáo là nỗi băn khoăn day dứt về bản thể và hiện hữu của mình. Modiano coi bản thân cũng như cả thế hệ ông là những người không có thời gian xác định. Suy nghĩ định vị mình trong lịch sử, tìm hiểu quá khứ của mình trong quá khứ lịch sử và dưới ánh sáng ấy, hình dung rõ hơn những đường nét của tương lai, đó là quan tâm chủ yếu của ông, thể hiện qua các tác phẩm. Sự sụp đổ của những ảo tưởng tháng 5/1968 [thời điểm diễn ra các cuộc biểu tình và đình công lớn trên toàn nước Pháp do sinh viên khởi xướng nhằm chống lại chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa tiêu thụ] lại càng khiến cho sự tự vấn rất “Hamlet” ấy thêm nhức nhối trong Modiano. Ông cho rằng một khi qua được cuộc sát hạch ngược trở về mê cung quá khứ thì sẽ có thể trả lời câu hỏi mình là gì hiện nay. Dường như ông muốn thử thách bản thân bằng cách đặt mình trong hoàn cảnh gay go của những năm chiến tranh, đặc biệt trong thời kỳ Đức chiếm đóng, tự kiểm nghiệm xem mình có thể ứng xử như thế nào và làm gì trong những điều kiện ấy. Ba tác phẩm đầu tay: Quảng trường Ngôi Sao, Tuần tra đêm, Những đại lộ ngoại vi được gọi là “Bộ ba về Thời kỳ chiếm đóng”. Ý đồ xác định vị trí của mình trong lịch sử, ở các tiểu thuyết của Modiano, vượt lên thành một vấn đề có tầm rộng lớn hơn: con người có quan hệ như thế nào với sự vận-động-tàn-phá-tất-thảy của thời gian? Câu trả lời cho vấn đề có vẻ siêu hình ấy đòi hỏi phải xác định minh bạch vị trí của mình trong sự vận động - không những anh là anh như hiện nay, mà còn có thể là những gì có trước anh nữa. “Con người bao giờ cũng tò mò muốn biết cội nguồn của mình”, Modiano thổ lộ. Việc đi tìm những “cội nguồn” ấy trở thành nét chủ đạo ở các nhân vật của Modiano, khiến cho tất cả các tác phẩm của ông đều như cộng hưởng với nhau. Như những mảnh rời của một trò chơi chắp hình, cuối cùng, lồng khớp vào nhau, song bí ẩn thay, dường như vẫn lạc loài một cái gì không xác định nổi.
Tác phẩm của Modiano đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng trên thế giới nhưng cho đến trước ngày ông đoạt giải Nobel Văn học thì mới chỉ có chưa đến 1/3 trong số 30 tác phẩm của ông được dịch sang tiếng Anh. Những tác phẩm của Modiano đã được xuất bản ở Việt Nam: “Những đại lộ ngoại vi” (Dương Tường dịch, NXB Tác phẩm mới, 1989), “Quảng trường Ngôi Sao” (Vũ Đình Phòng dịch, NXB Văn học, 2000), “Phố những cửa hiệu u tối” (Dương Tường dịch, 2003), và mới đây nhất là “Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối” (Bạch Lan dịch, Nhã Nam, 2014). Sắp tới, Nhã Nam không chỉ tái bản “Phố những cửa hiệu u tối” (bản dịch của Dương Tường) mà còn xuất bản hai cuốn “Từ nơi xa nhất của lãng quên” (Du plus loin de l'oubli) và “Để em không lạc trong khu phố” (Pour que tu ne te perdes pas dans le quartier). |
Ở Những đại lộ ngoại vi, đó là những tìm kiếm đau khổ của nhân vật chính dò theo dấu vết của cha mình - không chỉ theo nghĩa đen, mà còn là (và thậm chí là chủ yếu) theo nghĩa bóng, nghĩa ẩn dụ: tìm sự gần gũi bên trong với con người ấy, đúng hơn, với quá khứ ấy.
Nỗi đau quằn quại trong tìm kiếm một cái gì đã mất cũng là chủ đề của cuốn Cô Bé Nữ Trang xuất bản năm 2001. Cô gái 19 tuổi Thérèse, “Cô Bé Nữ Trang”, tình cờ gặp ở ga xe điện ngầm một phụ nữ giống hệt người mẹ đã chết nhiều năm trước ở Morocco, theo như thông báo chính thức. Sau nhiều cố gắng vô vọng dò theo “người mẹ” ấy, và sau một toan tính tự sát không thành, Thérèse trở lại với cuộc sống không màu sắc của một Paris ghẻ lạnh.
Suy nghĩ về con người như một hạt cát xoáy trộn trong dòng thác thời gian, cố gắng tập trung vào số phận con người, Modiano dường như nhằm chủ yếu vun đắp một ý thức về hiện hữu, hơn là dựng lên một bức tranh hình tượng cụ thể về thế giới. Điều đó cũng khá rõ ở Một gánh xiếc đi qua. Một chàng trai không biết từ đâu tới, một cô gái không biết còn trong trắng hay đã mang nặng một quá khứ đầy xáo động, một cuộc gặp gỡ khó tin và nàng kéo chàng vào một Paris kỳ ảo rồi biến mất. Gánh xiếc đã đi qua, chân trời vừa thoáng thấy lại khép lại, nhưng dấu hằn để lại là mãi mãi.
Phố những cửa hiệu u tối, giải thưởng Goncourt năm 1978, một trong những tác phẩm chủ yếu của Modiano, là nỗi khắc khoải triền miên về nguy cơ đánh mất nhân thân và bản cách. Điều gì đã thúc đẩy anh chàng Guy Roland mất trí nhớ, nhân viên của một hãng thám tử tư, lao theo dấu vết của một người không quen biết đã mất tích từ lâu? Đó là nhu cầu da diết tìm lại được mình qua dấu vết nhòa nhạt của con người vốn xưa kia có thể là anh, kiên nhẫn mò về những nơi có thể đã từng chứng kiến cuộc tình của anh ta với một người đàn bà giờ đây đã biệt tăm, cố bấu víu vào những bóng mờ của những nhân chứng duy nhất từng tham dự vào thời thanh xuân của gã môi giới hàng mang hộ chiếu đáng ngờ dưới cái tên Patro Mc Evoy mà cuối cùng anh ta tin rằng chính là mình. Như trong một vòng đu quay, những mẩu ký ức loang loáng, chập chờn, rời rạc không ngừng xoáy trộn với những câu hỏi đau đớn: “Tôi là ai?... có đúng đó là đời tôi không? Hay là đời một người khác mà tôi đã lẻn vào?”. Hình như đây không chỉ là một bi kịch cá nhân, mà còn là bi kịch của cả nhiều cộng đồng. Chúng ta đã chẳng chứng kiến những quá trình đau đớn tìm lại danh tính và bản sắc bị thất lạc của nhiều dân tộc những năm hỗn mang của đoạn cuối thế kỷ 20 - đầu thế kỷ 21 này sao?
Modiano có cái tài “phù phép” với thời gian, xóa nhòa được ranh giới giữa các lớp thời gian khác nhau khiến cho những sự vật hiện ra như không thể tin được dưới một ánh sáng lung linh kỳ ảo. Với Phố những cửa hiệu u tối, ông đã khẳng định vị trí đặc biệt của mình trong văn học Pháp nửa sau thế kỷ 20. Tất cả các tiểu thuyết của ông đều được xếp vào danh sách các tác phẩm hay nhất hằng năm ở Pháp. Và có lẽ giá trị lớn nhất của Modiano là nỗ lực không mệt mỏi khôi phục một ý thức nhân bản - quan tâm tìm về và bám chắc không rời xa cội nguồn nếu muốn khỏi bị tha hóa.
Tháng 10 năm nay, Viện Hàn lâm Thụy Điển quyết định trao giải Nobel văn học cho Patrick Modiano “vì cái nghệ thuật của kí ức mà ông đã vận dụng để gợi lên những phận người bẽ bàng, khó thoả nguyện nhất”, điều không quá bất ngờ đối với tôi, bởi từ nhiều năm, tôi đã mong chờ một sự tôn vinh xứng đáng cho tác giả yêu mến của mình như mong chờ một điều đương nhiên trước sau tất phải đến.
Nguồn: Dương Tường - Tia Sáng
THU TRANG (Pháp)Vài tháng nay ở Pháp đã rộn ràng xảy ra nhiều chuyện đáng để chúng ta suy nghĩ. Có lẽ trước hết là việc chiếc tàu Erika chở dầu đã bị vỡ hầm chứa ngoài khơi, biển Bretagne vùng Tây nước Pháp. Một đại nạn! Dầu đã bị sóng đưa vào bờ làm đen bẩn hầu hết các bờ biển, bãi tắm nổi tiếng.
NGUYỄN VĂN DŨNGSakuya là vị nữ thần cực kỳ xinh đẹp của xứ mặt trời mọc. Nàng là người đầu tiên tự tay gieo hạt giống cây anh đào trên núi Phú Sĩ. Mùa xuân hoa anh đào nở, đẹp cái đẹp lộng lẫy mê hồn của nàng. Bởi thế, người Nhật gọi hoa anh đào là Sakura - đọc trại từ Sakuya. Ngày nay, hoa anh đào đã có nhiều loại và mọc nhiều nơi, nhưng không nơi đâu đẹp bằng hoa anh đào ở núi Phú Sĩ.
VŨ LÊ THÁI HOÀNGTrong ánh nắng vàng rực tuyệt đẹp, giữa một New York hối hả, tấp nập, tua tủa nhà chọc trời, kiêu hãnh hiện ra bóng hình một phụ nữ khổng lồ tay cầm ngọn đuốc cháy sáng soi đường vào Tân Thế Giới.
ĐẶNG THỊ HẠNHMùa rét năm ấy ở Paris đã không có tuyết. "Một điều rất đặc biệt", ông Xuân Thủy nói với tôi như vậy khi tôi đi dạo với ông trong khu vườn bao quanh một cơ quan của Đảng Cộng sản Pháp dành riêng cho phái đoàn thương lượng của ta ở Paris .
HÀ PHẠM PHÚTôi chọn cái tựa trên cho bài viết một phần vì tôi bị ám ảnh bởi bộ tiểu thuyết Thiên long bát bộ của Kim Dung và bài của Quách Phong, một nhà nghiên cứu trẻ công tác tại đài phát thanh truyền hình châu Đại Lý - viết về chuyến thăm Đại Lý của nhà văn rất nổi tiếng này.
VÕ QUANG YẾNNúi cao cũng có đường trèo,Đường đi hiểm nghèo cũng có lối di. Ca dao
VÕ QUANG YẾNNguyễn Hải Đang, 20 tuổi xuân xanh, xúng xính trong bộ y phục mới tinh trường Bách Khoa Ecole Polytechnique, thường được gọi tắt là X.
NGUYỄN VĂN DŨNGKathmandu là kinh đô của vương quốc Nepal, nằm dưới chân Hy mã Lạp sơn. Là thành phố của tôn giáo và nghệ thuật, của nghi thức và lễ hội, của cổ kính và hiện đại, của thánh thiện và tâm linh, của suy tư và khát vọng, của du lịch và mộng mơ, của nắng gió và tuyết. Ngày nay, Kathmandu còn là thành phố của thanh bình và chiến tranh.
PHẠM THỊ ANH NGABài này nhằm giới thiệu một vài nét về diện mạo thi ca Pháp và một số hoạt động liên quan đến thơ trong xã hội Pháp những năm gần đây.
ĐINH CƯỜNGViện Bảo tàng Mỹ thuật Luxembourg, Paris vừa chấm dứt cuộc triển lãm qui mô, hàng trăm bức tranh của một họa sĩ lẫy lừng, bi thảm nhất thế kỷ hai mươi: Amedeo Modigliani.
ĐẶNG TIẾNNước Pháp có những thành phố nhỏ, lừng danh nhờ một sinh hoạt văn hoá. Ví dụ như Cannes, Deauville với những Đại Hội Điện Ảnh. Hay Angoulême nổi tiếng từ 30 năm nay với truyền thống Festival Quốc Tế Truyện Tranh BD, do chữ Bande Dessinée viết tắt, có nghĩa là băng hoạt họa (strip cartoon). Thành phố lịch sử với năm vạn dân, cách Paris hơn 400 km về phía Tây Nam, từ ngày 23 đến 26 tháng 1-2003, trở thành trung tâm thế giới về nghệ thuật Truyện Tranh BD, lần thứ 30.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Ghi chépMột chiều cuối đông năm ngoái tại góc Quán Cũ 25 Phan Đình Phùng, khi biết chúng tôi chuẩn bị chuyến khảo sát văn hóa tại Nhật Bản, giáo sư Đại học ngoại ngữ Tokyo Kawaguchi đề nghị chúng tôi nên bố trí kế hoạch đến Nhật vào mùa xuân để còn kịp ngắm hoa anh đào. Y lời, đúng ngày mở đầu tháng Tư năm nay, PGS.TS Phan Trọng Thưởng, Viện trưởng Viện Văn học và tôi lên đường công du sang Nhật khi biết chắc hoa anh đào đã nở.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Ghi chép Truyền thống trong hội nhập...Rời xe bus số 64 chúng tôi rảo bộ trên con đường lát đá tảng của phố Della Concilia Zionli giữa hai hàng cột đá trông như những ngọn nến khổng lồ để đến với nơi mà bất kỳ người dân công giáo nào cũng hằng mơ ước.
NGUYỄN VĂN DŨNG KýSau gần nửa tháng rong chơi suốt hai đầu thượng hạ Ai Cập, tôi trở lại Paris chuẩn bị chuyến du hành sang Hy Lạp. Bỗng được tin của Văn Cầm Hải từ quê nhà: “Thầy về gấp. Đi Tây Tạng ngày 15/9”. Tôi quyết định ngay. Lúc ấy tôi không hiểu vì sao. Bây giờ thì tôi đã hiểu vì sao.
NGUYỄN VĂN DŨNGTôi mới có ý định leo núi Phú Sĩ trên đường từ Tokyo về cố đô Kyoto. Chiếc tàu siêu tốc chạy ngang qua vùng núi Fuji. Bên ngoài, trông Fuji hùng vĩ và đẹp hơn trong ảnh nhiều. Trên nền xanh thẳm của Công viên Quốc gia Fuji-Hakone-Izu, hai cánh núi từ tít tắp hai đầu Bắc Nam như đôi tình nhân thiên thu gặp lại, tràn về phía nhau. Và khi gặp nhau, cả hai hoà thành một, rồi bay vút lên trời, xuyên qua mấy tầng mây, để lộ giữa thinh không cao ngút cái chỏm mĩ miều như đầu ngọn bút lông.
TRẦN LỘC HÙNG1. Bạn bè tôi thường nói: “Không hiểu nước Nga nuôi mày kiểu gì mà tới bây giờ mày vẫn yêu nước Nga”. Vợ con tôi cũng vậy. Nước Nga dưới con mắt của những người thân của tôi hoàn toàn khác tôi. Đơn giản vì tôi đã tới nước Nga từ những năm tôi mới 17 tuổi, hơn nữa tôi đã sống, học tập và làm việc ở nước NGA ngót nghét 10 năm.
NGUYỄN VĂN DŨNG Bút kýChuyện kể rằng, vào một ngày tuyết trắng Tây kinh, Võ Tắc Thiên bỗng cao hứng lệnh cho tất cả loài hoa, nội trong một đêm phải nở hết. Sáng hôm sau, tuy giữa mùa đông giá lạnh, các loài hoa đều ríu rít nở, trừ... mẫu đơn. Võ Tắc Thiên giận lắm, bèn phán đày mẫu đơn xuống Lạc Dương cho khuất mắt. Từ đó, Lạc Dương trở thành quê hương của hoa mẫu đơn.
LÊ BÁ THỰ Bút kýNhận lời mời của Bộ Văn hoá và Viện sách Ba Lan, tôi đi dự Đại hội Dịch giả Văn học Ba Lan toàn thế giới lần thứ nhất. Sau khi đến Vacsava, sáng 11 tháng 5 tôi đáp xe lửa xuống Krakow , thành phố cách thủ đô Vacsava trên 300 cây số. Ngồi bên cửa sổ con tàu, tôi ngắm cảnh mùa xuân hai bên đường: những rừng thông tươi tốt, những cánh đồng lúa mì xanh xanh trải dài tít tận chân trời.
VI THÙY LINH Tuỳ bútNgười Trung Quốc (TQ) có câu: “Trên trời có thiên đàng, dưới có Tô Châu, Hàng Châu”. Chỉ thoạt nghe, đã thấy người ta thật tự hào, về cảnh đẹp thành phố (TP) này đến thế nào, trên đất Đại lục dày đặc thắng cảnh, di tích, kỳ quan của Trung Hoa cẩm tú.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNG Tản mạn từ Bruxelles Dưới mái hiên trạm gác cũ Porte de Ninove gần chỗ tôi ở có sống một cư dân đơn độc và lưu niên. Gã bù xù, tôi chỉ biết gọi gã như thế, nom chỉ trạc ngoài ba mươi nhưng có vẻ như đã cũ nát lắm rồi. Không ai biết gã từ đâu dạt vào, ở đó từ bao giờ.