Tình hình có vẻ cấp thiết lắm, do cô đang nuôi con mọn mà suốt ngày lại buôn bán ngoài chợ. Thời buổi này tìm người giúp việc khó lắm. Tìm cho được người ưng ý lại càng khó. Tôi nghĩ ngay đến Azis, vì vừa lên thăm bà con ở trên đó về, buột miệng nói: “Một cô bé người dân tộc Tà ôi ở A Lưới. Giỏi giang, ngoan, hiền. Đồng ý không?”. Như vớ được cọc, cô bạn nhanh nhảu gật đầu. Tôi lập tức gọi điện thoại lên A Hươr, nhắn Azis sửa soạn về. Đêm cuối năm trời núi rừng lạnh căm, bên bếp lửa bập bùng, trong căn nhà của Hồ Văn Đỏ, phó bí thư Đoàn xã Nhâm, chúng tôi ngồi râm ran trò chuyện, ánh lửa và hơi rượu nồng nàn. Hôm đó anh em nhà Đỏ, Dấu đãi chúng tôi một đĩa cá xanh chiên mọi thơm lừng. Lại thêm món gà vườn luộc xé đúng khoái khẩu của tôi. Mẹ Kăn Dư nấu một nồi cơm gạo Rà-dừ bắt “phải ăn cho đầy bụng mới được uống rượu”. Thứ gạo rẫy dẻo thơm này được bà con trồng rất công phu, mỗi năm chỉ có một vụ, từ tháng năm cho đến tháng mười một. Đây là đặc sản của đồng bào dân tộc, “chỉ dành để tiếp đãi con rể và khách quý”. Mẹ Kăn Dư nói: “Con về dưới xuôi thấy có việc chi làm, nhắn cho Azis về làm với”. Ngồi khép bên mẹ, Azis mỉm cười. Azis cười trông thật hiền, nhưng cũng thật buồn. Khuôn mặt của em bập bùng trong ánh lửa rừng sâu, bập bùng trong gió rét. Còn nhớ cách đây hai năm, tôi cùng một đoàn nhà văn Huế đi thực tế sáng tác ở A Lưới. Huyện giới thiệu về xã Nhâm, cắm chốt ở thôn A Hươr này. Hồi đó, Azis và bạn gái A Phen được cử làm cấp dưỡng cho cả đoàn. Chúng tôi đã có những bữa cơm ngon không thể chê vào đâu được chính nhờ tài nấu nướng của hai chị em cùng với những món ăn dân dã núi rừng. Hóa ra hai chị em đã từng được cử đi học nấu ăn ngoài thị trấn để về phục vụ khách du lịch. Thôn A Hươr này đang là một trong những thôn làm du lịch sinh thái thí điểm của huyện mà. Những bữa cơm ngon một phần cũng nhờ gặp lại mùi khói khét của bếp củi lửa rừng nồng đượm. Đã nhiều năm rồi, chúng ta - những người thành phố - dường như đã quên mất mùi khói bếp, vì đã có sẵn bếp điện bếp ga. Giờ đây, chính bát cơm canh bầu bí khét nồng từ trong chái bếp đen xịt khói than bỗng dưng trở thành lạ miệng, thành “đặc sản”. Và đặc biệt, bữa cơm nào hai chị em Azis, A Phen cũng dọn lên mâm một nắm ớt mọi hái dọc bờ rào quanh vườn. Những quả ớt nhỏ như chuồn chuồn kim, cắn vào một miếng nghe cay lừng khắp cả miệng lưỡi. Còn nhớ, chúng tôi đã có một cuộc tranh luận nảy lửa về cái tên ớt mọi. Sao lại là mọi? Đó có phải là ớt do đồng bào dân tộc trồng? Cũng giống như dê nướng mọi - cái món khoái khẩu của quý ông đồng bằng mỗi khi chiều về - chính là món dê nướng theo kiểu dân tộc? Cái từ mọi nghe sao mà xa lánh, thậm chí đầy miệt thị. Có lần đọc tin trên báo Thanh Niên, viết rằng có lãnh đạo tỉnh miền Trung nọ cấm tiệt các quán ăn nhậu từ nay không được dùng từ mọi để gọi những món nướng theo kiểu dân tộc. Một lệnh cấm quyết liệt và cụ thể, dù muộn màng và có vẻ đơn độc, vẫn chưa thể nào che lấp được một thái độ khinh khi vô lối, dù chỉ vô tình, với cả những cộng đồng dân tộc thiểu số vùng núi cao. |
NGUYỄN QUANG HÀHầu như mỗi chúng ta chỉ biết Mai Xuân Hòa là nhạc sĩ. Anh đã ra mắt hai tập nhạc viết cho người lớn: "Nỗi đợi chờ", "Khát vọng",và hai tập cho thiếu nhi: " Những điều em thích", " Những ngôi sao đẹp".
PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)
LÊ KHAI Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ. Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.
HÀ KHÁNH LINH Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!
TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.
TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.
NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.
PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước vào đời.
NGUYỄN VĂN VINH Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.
TRẦN HOÀI Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...
LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.
NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.
TỐ HỮU Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.
NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.
TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.