Ông Thi

10:56 21/05/2009
PHẠM XUÂN NGUYÊNVề chính trị, ông được chữ nhất: Đại biểu quốc hội trẻ nhất (22 tuổi, khóa I năm 1946); Tổng thư ký Hội Nhà văn lâu nhất (1958 – 1989).Về văn nghệ, ông được chữ đa: đa tài, sáng tác nhiều lĩnh vực, và để lại dấu ấn: thơ (Người chiến sĩ, Tia nắng, Sóng reo), văn (Vỡ bờ), kịch (Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc), nhạc (Diệt phát xít, Người Hà Nội), tiểu luận (Mấy vấn đề văn học, Công việc của người viết tiểu thuyết).

Về cuộc đời, ông cũng được chữ đa; đa tình, đào hoa. Từng có một cuốn tiểu thuyết của một nữ văn sĩ gây dư luận ồn ào vì nghe như ông là nguyên mẫu của một vai chính trong đó. Từng nghe nói (không biết đích xác thế nào) tại một cuộc liên hoan thanh niên sinh viên thế giới năm nào đó giữa thế kỷ hai mươi, ông và nữ nhà báo cộng sản Pháp Madelaine Riffaud, người được chủ tịch Hồ Chí Minh coi như con nuôi, đã có tình cảm với nhau. Nhưng thời thế đã không cho phép cuộc tình ấy tươi cành xanh lá.

Như nhiều người nổi tiếng và quan trọng khác, quanh ông cũng có nhiều lời đồn đại. Ví như người ta kể Nguyễn Tuân “cấm cửa” ông (ông Tuân là Tổng thư ký đầu tiên của Hội văn nghệ Việt Nam khi mới thành lập năm 1948, và mấy năm sau là đến ông), và cứ theo lời kể thì giữa hai ông đã có những cuộc “tao ngộ” vô tiền khoáng hậu. Nguyên Hồng kể: “Tiếp Abraham (chủ nhiệm tạp chí Châu Âu), ông Tuân nhất định không nói tiếng Pháp. Cứ đòi phải có phiên dịch. Cuối cùng phải có một phiên dịch. Phiên dịch Nguyễn Đình Thi: Tổng thư ký Hội Nguyễn Đình Thi làm phiên dịch. Quái quỷ!” (1). Ví như người ta bảo tại cuộc hội nghị đảng đoàn Hội Nhà văn năm 1979, ông có một phát biểu thực tâm: các nhà văn chúng ta là những hạt bụi, nhưng được ánh sáng của Đảng chiếu vào nên thành bụi long lanh!
Nhưng, cũng như những người lớn khác, ông là người cô đơn.

Cô đơn năm 1949, khi ông làm thơ tự do “những câu thơ như lời nói thường mà đến một độ cảm xúc mãnh liệt” để nói cái đau đớn cá nhân trong chiến tranh, thơ đó đã bị đưa ra phê phán tại hội nghị tranh luận văn nghệ Việt Bắc. Đến cả những chủ soái, kiện tướng của hồi Thơ Mới như Thế Lữ, Xuân Diệu cũng không hiểu được cho ông. Tố Hữu thì thấy “ghét thơ anh Thi ghê lắm” vì sợ cái cá nhân. Những lời phê bình đã làm ông cô đơn, ông suy nghĩ, và ông đã phải thay đổi.
Cô đơn hồi những năm 1970, khi cô Phượng, nhân vật của tiểu thuyết Vỡ bờ, bị đem ra mổ xẻ, phê phán. Cô Phượng, con gái một nhà tư sản hàng Ngang hàng Đào, vợ một tri huyện, quen sống trong vây bọc của giới thượng lưu, nhưng lại đem lòng yêu một họa sĩ nghèo, và khi cách mạng tháng Tám nổ ra cũng biết cầm cờ xuống phố chào mừng. Nhà văn đã quá nâng niu, chiều chuộng, vuốt ve nhân vật của mình, đến độ phá vỡ logic cuộc sống và logic nghệ thuật. Viết như thế là còn thiếu vốn sống, còn yếu về thế giới quan, là chưa đúng phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa. Trước những góp ý xây dựng đó, ông đã phải thốt ra một câu nổi tiếng: tôi đưa ra cho các người một con ngựa, sao các người lại hỏi nó không có sừng. (Cái câu dạng này nhưng dùng hình ảnh khác cũng đã được nhà văn Phan Tứ thốt ra khi nhân vật Duy Hảo trong cuốn tiểu thuyết Mẫn và tôi của ông bị góp ý như nhân vật Phượng. Phan Tứ nói: tôi mở quán bán mì, sao các người lại hỏi không có phở).

Cô đơn năm 1980, kỷ niệm 600 năm sinh Nguyễn Trãi, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, ông viết vở kịch Nguyễn Trãi ở Đông Quan, chỉ diễn đâu một lần rồi thôi, thôi cho đến tận bây giờ. Phục dựng hình ảnh người trí thức Nguyễn Trãi thời ở “góc thành Nam lều một gian, no nước uống thiếu cơm ăn”, ông đã làm giật mình những người có trách nhiệm. Nhưng “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, huống nữa là bậc sĩ phu. Ông cô đơn lần này thấm tận nỗi đau. Kịch ông hầu như vở nào cũng bị vướng. Vở Rừng trúc viết về vị vua cuối cùng của triều Lý là Lý Chiêu Hoàng mãi hơn hai chục năm sau ngày viết ra mới dàn dựng được, tác phẩm sân khấu cuối đời của đạo diễn tài năng Nguyễn Đình Nghi. Vở Con nai đen cũng bị xầm xì. Nói như Bùi Ngọc Tấn, đó là thời gian lưu truyền bản án miệng về các con vật: con voi của Bành Bảo, con nai đen của Nguyễn Đình Thi, con chó xấu xí của Kim Lân, rồi là con hùm của Nguyên Hồng, con ngan của Vũ Tú Nam.(2)

Cô đơn năm 1993 nhà triết học Việt Nam Trần Đức Thảo mất ở Paris, ông ở Hà Nội viết bài tưởng nhớ con người ông đã gặp hơn bốn mươi năm trước ở chiến khu Việt Bắc, kể lại cuộc đời ông Thảo mà ông viết như dửng dưng: “Mấy năm sau những ngày về Hà Nội, tôi được biết anh Trần Đức Thảo làm khoa trưởng trường đại học của ta. Tôi thầm nghĩ: như vậy phải quá. Sau vụ báo “Nhân văn”, Trần Đức Thảo thôi giảng dạy ở trường đại học của ta. Tôi thầm nghĩ: như vậy phải quá”. (3) Câu văn đăng đối che giấu một nỗi xô lệch trong lòng.

Thơ ông viết khi tuổi đã tóc bạc:
Tôi không nói được mình đã trải đời
Không nói được mình đã hiểu người
Không dám nói mình đã biết yêu
Không dám nói mình đã biết sống (3)

Một thái độ khiêm tốn, khiêm nhường? Có thể. Nhưng có thể đó cũng là một thái độ xí xóa đối với cuộc đời, với bản thân. Nguyễn Công Trứ nhân dịp lên lão bảy mươi làm một bài thơ mời bạn hữu đối họa, trong đó ông nói muốn vất hết mọi công danh phù thế, quay về chốn núi Hồng nằm khểnh mà chơi. Cao Bá Quát họa lại một bài “chọc chơi” Uy Viễn tướng công: ông nói thế không sợ núi Hồng cười cho ư, vì chẳng hóa ra bảy mươi năm qua đời ông là vô ích, là vất cả hay sao?
Khi còn là sinh viên ông đã viết bài về triết học Kant, Descartes. Sau này một nhà văn trẻ đã viết bài trao đổi lại với ông về Kant, Nietzsche, khi ông tỏ ý chê trách lớp cầm bút trẻ không chịu đọc, chỉ thích nói chữ. “Giới hạn chỉ còn do sức đi xa của mình”, ông đã nói vậy vào năm 1949.

Có lẽ cái còn lại trong văn nghiệp của ông, như có lần ông đã tự nhận và người đọc cũng công nhận, là thơ và kịch. Nhất là thơ. Thơ ông buồn man mác và lắng sâu.
Phút giây không nói của đôi tình nhân thoáng gặp trong chiến tranh:
Môi em đôi mắt
Còn ôm đây
Nhìn em nữa
Phút giây
Chiều mờ gió hút
Em
Bóng nhỏ
Đường lầy (3)

Quanh cảnh Hà Nội ngày súng nổ:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác heo may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy (3)
Mang Hà Nội đi xa là có cả bốn câu thơ này, những câu thơ vào loại hay nhất viết về Hà Nội.

Thơ ông theo năm tháng cuộc đời càng nghiêng về những đêm Lý Bạch những chiều cuối năm, những niềm nhỏ, những một chút, đi theo cùng tia nắng, và hòa vào trong cát bụi. Ông đã thấy những ngõ tối nơi cái ác giấu mình. (4)

Ông đã thấy có những người nhìn nhưng không thấy:
Anh đăm chiêu: “Sông ở đây nước đục ngầu”
Tôi không dám nói lại. Sông ở đây nhiều phù sa

Anh nghiêm nghị: “Còn quá nhiều bóng tối
Lâu nay chúng mình quá lý tưởng”

Vâng. Hôm qua, hôm nay, các bà mẹ chúng ta vẫn ăn đói nuôi con (3)

Và ông hiểu ra con người còn mãi loay hoay với những câu hỏi:
Công bằng đầu tiên là ở bát cơm mỗi nhà
Giải phóng đầu tiên là khỏi đói rét ngu tối
Phẩm giá đầu tiên là có việc làm
Tự do đầu tiên là được lựa chọn
Bình đẳng đầu tiên là ngang nhau nam nữ
Nhân nghĩa đầu tiên là coi trọng mạng sống con người
Hy vọng đầu tiên là ở suy nghĩ
Hạnh phúc đầu tiên là yêu và thương. (5)

Khó lắm, lời giải cho những câu hỏi đó, khi chúng được nói ra từ miệng một nhà thơ đã từng là ủy viên ban thường trực quốc hội khóa đầu tiên, thành viên ban soạn thảo hiến pháp đầu tiên của nước Việt mới.
Ông có một niềm nhỏ là khi đi xa chỉ mong đem theo được bên mình “một vài ánh mắt nhìn quyến luyến” và gửi lại được “chút nắng ấm cho người tôi yêu thương”. Có lẽ giờ đây ông được toại nguyện điều đó.

Giờ đây ông đã từ bên ấy trông về
Trông về từ bên ấy
Những gì anh thu vén bao lâu
Những gì anh chăm chăm giành giật
Nào mang theo được gì đâu

Chỉ những niềm yêu của anh
Như mạch nước không ai thấy
Mỗi ngày nuôi anh lặng lẽ (3)

Con người ta chỉ khi đã về với cát bụi mới ngộ được cái triết lý dân gian trong bài ca dao về vua Ngô và chúa Chổm. Đó là bi kịch đời người. Ít ai dám sống theo câu nhạc Trịnh: sống trong đời sống cần có một tấm lòng, cho gió cuốn đi, gió cuốn đi.
Nghe kể hàng năm, từ nhiều năm về trước, những dịp lễ tết ông vẫn thường đến thăm Trần Dần và gia đình, vẫn có những cử chỉ chu đáo, thân tình.

Trong một album nhạc của cố nghệ sĩ nhân dân Lê Dung hát bài Người Hà Nội có cảnh ông ngồi bên cửa sổ trước một bình hoa trầm tư mơ mộng. Có lẽ, đó là chân dung thật nhất của ông, con người sáng tạo, con người của thơ nhạc.
Vĩnh biệt ông, Nguyễn Đình Thi.

Tokyo 4. 2003
P.X.N
(172/06-03)

--------------------
(1) Bùi Ngọc Tấn. Một thời để mất, hồi ức văn học, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội, 1995, tr. 77.
(2) Bùi Ngọc Tấn. Sđd, tr. 112.
(3) Tuyển tập Nguyễn Đình Thi, Nxb Văn Học, Hà Nội, 1997, tập 3, lần lượt số trang: 192, 605, 395, 431, 566, 572.
(4) Những chữ in nghiêng là ý thơ và tên các bài thơ của Nguyễn Đình Thi.
(5) Nguyễn Đình Thi. Sóng reo, Nxb Hội Nhà văn, 2002.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THỊ TRƯỜNGBước chân vào cái ngõ 45 Phan Bội Châu gặp mùi bánh trứng nướng thơm phức bao trùm, ngỡ ngàng: “Ông Trần Đình Hiến còn là một chủ lò bánh?”. Nhưng: - Không phải đâu. Khu nhà này hầu hết là mấy anh em ruột chúng tôi sinh sống. Lò bánh này của một chú, còn các người khác mỗi người một nghề. Các em tôi đều chịu khó. Vâng, bây giờ ai chẳng lấy chịu khó làm đầu...

  • Chính Bùi Hiển dẫn lời bạn ông nói rằng văn ông đi từ hướng ngoại đến hướng nội, hàm ý chín dần, mỗi ngày mỗi gần hơn với cốt lõi văn chương. Tôi không thấy như vậy.

  • NGÔ MINHSau hai cuộc hành trình vất vả hơn 2600 cây số đi về Đại hội Nhà văn khu vực miền Trung ở Nha Trang giữa tháng 3, rồi Đại hội Nhà Văn Việt Nam VII, bắt đầu từ 22/4 đến 10 giờ rưỡi đêm 27/4 tôi mới về tới nhà mình ở Huế, ngồi trước máy vi tính viết những dòng  buồn vui lẫn lộn.

  • THANH THẢO                           6 năm nay, kể từ cái đêm thơ nhạc kỷ niệm 40 năm đường 559 do nhà thơ Phạm Tiến Duật dẫn chương trình, trong đêm ấy Tế Hanh vì quá xúc động khi nhớ lại chuyến đi qua Trường Sơn của mình đầu năm 1974, ông đã bị xuất huyết não. 6 năm ấy, không thể có một cuộc phỏng vấn hay “gặp gỡ” nào được thực hiện với Tế Hanh, đơn giản vì ông không nói được. Tôi nghĩ, 6 năm nay, Tế Hanh chỉ còn trò chuyện với dòng sông của mình, dòng sông của đời mình, trong im lặng. Vì thế, những cuộc trò chuyện tôi kể sau đây đều thuộc về thời gian trước khi Tế Hanh lâm trọng bệnh.

  • LTS: Kể từ khi xuất hiện với bạn đọc qua bài bút ký đầu tiên có tên là Gọi nắng và chùm thơ Đời chị trên tạp chí Sông Hương lúc tuổi đời mới hai mươi, gần 10 năm qua, Văn Cầm Hải là một “hiện tượng văn học” của nhiều cuộc tranh luận vì phong cách lập ngôn mới lạ của mình. Bước vào mùa xuân mới, đúng vào ngày sinh nhật 20/1/2005 của mình, Văn Cầm Hải đã chính thức trở thành một trong những nhà văn trẻ nhất của Hội Nhà văn Việt Nam. Vốn là người kín tiếng đến mức “lập dị” nhưng nhân dịp xuân vui này, nhà văn Văn Cầm Hải đã “bật mí” nhiều điều, từ A đến Z trong cuộc sống của anh  với Sông Hương.

  • Sáng ngày 24-2-2005 tại trụ sở 26 Lê Lợi - Huế, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức lễ tưởng niệm nhà thơ Huy Cận. Nhiều cơ quan, ban ngành tỉnh, thành phố Huế và anh chị em văn nghệ sĩ đã tới dự. Sông Hương trân trọng giới thiệu “điếu văn” do nhà thơ Võ Quê đọc trong lễ tưởng niệm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Tưởng nhớ nhà thơ Lương An)Năm 1984, sau khi cùng anh chị em văn nghệ đón di hài nhà thơ Vĩnh Mai về Huế, nhà thơ Lương An - người đồng hương, người bạn thơ gần gũi với Vĩnh Mai đã viết bài "Đón anh về lại Huế thơ": Anh về lại Huế hôm nay / Huế đang mưa bỗng tạnh ngày nắng xuân...

  • HỒ SĨ HIỆPBa Kim, tên thật là Lý Nghiêu Đường, tự Thị Cam, sinh năm 1904, người Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Ông viết văn rất sớm, nổi tiếng trên văn đàn từ thời "ngũ tứ vận động" (1919) và hoạt động văn học sôi nổi từ những năm 30, 40 của thế kỷ trước, tên tuổi ngang hàng với các nhà văn Mao Thuẫn, Tào Ngu và Lão Xá.

  • TRUNG SƠN(Nhân kỷ niệm 10 năm ngày mất nhà thơ Phùng Quán)I. Hơn mười năm trước - mùa hè 1992, một cuộc “khai quật” ở Huế đã làm chấn động dư luận. Trong lúc đào hố móng xây dựng một căn nhà tại trụ sở Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật Thừa Thiên Huế, người ta đã phát hiện một ngôi mộ tập thể gồm 17 bộ hài cốt, một số vũ khí, đạn và 3 kỷ vật còn ghi rõ tên hiệu, đơn vị Vệ quốc đoàn hồi năm 1946.

  • XUÂN TÙNG          Chòi trống im lìm, khách ngẩn ngơ          Bình khô, rượu cạn, điếu chăng tơ          Bao giờ điếu lại reo êm ái          Nhà rộn tiếng cười, ấm giọng thơ...

  • TRẦN THỊ LINH CHIXuất thân gia đình quan lại, học giỏi nhưng lại không chịu theo đuổi đến nơi đến chốn để khoa bảng đề tên, tiến bước công danh hầu nối nghiệp nhà, cha tôi bỏ dở chương trình tú tài sau khi đậu thành chung, làm một công chức kiếm sống qua ngày, dành hết cuộc đời cho văn học. Năng khiếu phê bình của ông đã biểu hiện ngay từ thời còn đi học.

  • PHAN TRUNG THÀNHTháng giêng năm 2003, Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh tổ chức đêm thơ Nguyên Tiêu lần thứ I, theo sáng kiến thành lập “Ngày thơ Việt Nam” của Hội Nhà văn Việt Nam.

  • BẢO CƯỜNGLTS: Trên 40 năm ngâm thơ và đệm sáo cho thơ từ ra Bắc, từ trong nước ra nước ngoài, Bảo Cường hiện là một nghệ sỹ lão luyện trong nghề. Bài viết dưới đây, như chính tác giả nói: “Với lòng thiết tha mong mỏi bộ môn ngâm thơ và đệm sáo cho thơ ngày một phát triển, để mọi người và nhất là giới trẻ yêu thơ có cơ hội tìm hiểu đào sâu về hai bộ môn này.”

  • TRẦN NINH HỒLTS: Trần Ninh Hồ tên thật là Trần Hữu Hỷ. Lính Đông Bộ 1971 - 1976, 1977 - Trưởng ban Văn thơ báo Văn Nghệ. Nguyên chủ nhiệm Bảo tàng Văn học Việt …Bình quân cứ độ dăm năm, nhà thơ Trần Ninh Hồ lại có một "đợt" xuất bản thơ. Anh là cây bút sung sức trong suốt mấy thập niên vừa qua của nền thơ hiện đại Việt Nam, từ cuộc chiến tranh chống Mỹ cho suốt đến những ngày hôm nay...Nhà văn Võ Thị Xuân Hà đã có cuộc trao đổi với nhà thơ Trần Ninh Hồ trong một cách nhìn riêng biệt.

  • INRASARACác hội thảo bàn về nâng cao tính chuyên nghiệp trong sáng tạo văn học đã lôi kéo không ít nhà văn tham gia bàn cãi sôi nổi. Là tín hiệu đáng mừng: văn học Việt đang tự ý thức, tự phản tỉnh (self consciousness).

  • TRẦN ĐÌNH SỬThực tế nghèo nàn về thành tựu khoa học xã hội và nhân văn của chúng ta có thể tìm thấy nguyên nhân trong lối tư duy độc tôn một thời ở lĩnh vực học thuật. Cội nguồn sâu xa của lối tư duy ấy đang nằm trong di chứng của thời kì chiến tranh kéo dài ba mươi năm và cuộc đấu tranh ý thức hệ tàn khốc.

  • NGUYỄN THANH MỪNGKhái niệm nhà văn làm báo chắc không phải là chuyện lạ, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay. Cánh cửa mở ra cho nhà văn tung hoành trên “sân cỏ” báo chí không đơn thuần là chuyện “cơm áo không đùa...” mà vì nơi đây, nhà văn thể hiện mình ở nhiều góc độ khác nhau, hiểu từ hai phía, nhu cầu biểu lộ tâm trạng của họ và nhu cầu của đời sống đất nước và nhân dân đòi hỏi ở họ.

  • TRƯỜNG NHÂNLTS: Cũng như cuộc đời, văn nghệ có biết bao buồn vui. Nhà văn cũng là người, cho nên có lúc cũng dở khóc dở cười bởi những chuyện ngoài văn chương. “Vạch túi cho người xem... bia” là câu chuyện hậu kì để bạn đọc chia sẻ với chuyện bếp núc làng văn.

  • NGUYÊN ANMột nhà văn đồng hương cao niên hỏi tôi:- Sao bây giờ ta mới quen nhau nhỉ?Tôi chưa kịp trả lời, ông đã nói tiếp:- Thôi, từ nay nhé!

  • THANH THẢOLTS: Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã về Huế. Có thể nói đấy là một sự kiện - một sự kiện trang nghiêm lặng lẽ.Là người có căn lành, cuộc trở về của ông dường như mãn vẹn. Ông đã trở về với nơi xuất phát, trở về với “ngôi nhà có ngọn lửa ấm”, trở về với tư cách một công dân thi sĩ.Sông Hương có nhã ý “cập nhật” ông từ đầu nhưng qua dò ướm, biết ông chưa muốn, Sông Hương đành để các báo bạn “post” trước.Mặc dầu “truy cập” sau nhưng Sông Hương với ông, với người Tổng Biên tập đầu tiên - Tổng Biên tập sáng lập hẳn còn nhiều duyên nợ, dài dài...