Ông Táo trên đất Địa Linh

08:19 10/02/2014

Cống Địa Linh xem như dấu mốc cuối cùng của phố cổ Bao Vinh. (Thừa Thiên - Huế). Qua cống Địa Linh rẽ trái dăm trăm mét, du khách sẽ bắt gặp những tấm ván dài và phía trên là những ông Táo được đặt lên phơi khô trước lúc đưa vào lò. Ở Huế đây là nơi hiếm hoi còn "sót lại” nghề làm ông Táo với nhiều ý nghĩa trong phong tục của người Việt.

Ông Táo được sinh ra từ đất Địa Linh sẽ có thêm chỗ dựa tinh thần đối với thuần phong mỹ tục ở mỗi gia đình

Gọi chung là ông Táo, thực chất trên mỗi phiến đất bằng nửa bàn tay như vậy gồm ba ông. Sự tích kể: Xưa có đôi vợ chồng nông thôn; người vợ trước vốn đã có chồng. Một sáng bỗng vô tình gặp lại chồng cũ; chẳng ngờ chồng mới đi cày về sớm, người vợ đành giấu anh ta vào đống rơm. Tai nạn xảy ra lúc người chồng mới vương lửa bén vào đống rơm. Vợ lao vào chữa cháy, chồng mới thấy vậy liền nhảy vào cứu vợ... Cả ba đều thiệt mạng trước ngọn lửa hung tàn! Người dân động lòng trắc ẩn mới "phong” họ làm thần; thường được thờ chung ở bếp, nên còn được gọi là Thần Bếp. Và cứ đến ngày 23 tháng Chạp âm lịch là tiễn họ về trời để dâng sớ lên Ngọc hoàng báo cáo những chuyện trong đời sống ở cõi Ta bà, nhất là "bếp núc”.
 
Tích này có dị bản song tựu chung vẫn gắn liền với lửa như một phát hiện sáng tạo, nhảy vọt của loài người. Một bản khắc tại chùa Ông ở Huế (đã được các sách dẫn giải) đề cập đến tín ngưỡng này: "Ngày 23, dân gian phải thành tâm, trai giới, cung kính tiễn đưa, ngày 30 trở về thành tâm nghinh tiếp, sớm hôm cung kính lễ bái để thần được an, nhà được vượng”. Cứ dịp cận Tết, cảnh này ở vùng nông thôn Huế khá phổ biến. Ông hàng xóm nhà tôi thường mua ông Táo mới vào 22 Tết, rồi hôm sau thỉnh lên bàn thờ bếp. Ông Táo cũ được hạ xuống, đưa ra để trên cái bình phong của một ngôi mộ hoang lớn cuối xóm. Chỗ này người làng để nhiều đến mức không ít ông Táo rơi xuống đất nằm ngổn ngang tội nghiệp. Ông hàng xóm đứng trước cái bình phong rêu bám đầy mình thắp hương kính cẩn khấn vái rồi mới ra về. Bàn thờ ông Táo mới được dọn sạch, đặt lên đó ông Táo mới mặt mũi vui tươi, bên cạnh là ly nước trong, gói bánh, một ít bông ba hoa quả. Ở phía dưới, bếp được nhen với loại củi đượm, thể hiện cho ngọn lửa sung mãn, nhiều hy vọng về một cuộc sống gia đình ấm cúng, bền vững.
 
Là người xứ khác, nơi không phổ biến lệ này; vào Huế sống mấy năm tôi cũng hoan hỷ "nhập tục”. Cầm ông Táo trên tay bỗng muốn tìm đến địa chỉ sản xuất "nhân vật linh thiêng” này. 
 
Tôi vào thăm một chủ lò ở vùng đất Địa Linh. Trong khoảng không gian hẹp, có đến ba người đang chăm chú với công việc. Một trung niên cho đất vào khuôn rồi nện mạnh xuống khúc gỗ phẳng bọc bố, sản phẩm cho ra là ông Táo. (Khuôn được đục từ gỗ lim, lúc thổ mạnh cũng không vỡ). Hai người còn lại, người nhào đất, người quét sơn lên ông Táo. Sơn màu đỏ thẫm được hòa hơi loãng, dùng tay tì mạnh cọ và quét đi quét lại nhiều lần để sơn thấm đều. Người lành nghề mỗi ngày có thể quét khoảng một ngàn ông Táo.
 
Dập khuôn ông Táo cũng với số lượng tương đương; người lớn tuổi đúc thong thả thì ngày khoảng dăm sáu trăm. Công đoạn làm đất rất quan trọng. Dụng cụ chính: đoạn sắt tròn uốn hình chữ u, có tay cầm, rồi nối một sợi dây thép nhỏ trên chữ u, cứ thế người ta xăm từng lớp mỏng tìm sạn, rồi nhồi, lại xăm… Nhồi như nhồi bột lọc rất tỉ mẩn cho đến lúc đất sạch. Đất ấy đưa vào khuôn nện chặt, ông Táo "ra đời” nếu người đúc phát hiện có sạn sẽ dùng cái lẩy nhọn khươi ra, nhưng nếu ông Táo vẫn bị "lở” sẽ phải nhồi làm lại. Đất không những làm kỹ mà nguồn đất cũng thường được chủ lò dặn lấy chỗ sạch. Thời bây giờ ruộng đồng ít đi, các chủ xe chủ yếu lấy đất ở công trình xây dựng hoặc từ việc đào hồ… Có thêm một loại ông Táo lớn bằng nắm tay trẻ em dài khoảng 15cm, thường được mua để cúng ở đình chùa miếu mạo, các lăng mộ, song vì hao đất nên chủ lò rất ít làm.
 
Sản phẩm ông Táo thành phẩm
 
Mùa hè gặp ngày nắng to cũng phải vài ba ngày ông Táo mới khô. Mùa mưa đúc "mấy ông” xong, việc phơi phóng rất khổ; đưa ra gom vào còn cực hơn cả phơi lúa. Trời không nắng, người ta trải gạch và đặt mỗi ông Táo lên đó để mau rút nước. Chính điều này mà hầu hết gạch lót đều bị nứt đôi. Trời lúc nắng, lúc mưa nhiều khi còn phải chất ông Táo quanh lò sấy khô rồi mới tiến hành khâu nung. Lo nhất là mùa lụt, nếu các ông Táo thấm nước sẽ mất đường nét thần thái, khách kêu là "ông Táo hai năm”, đành phải đốt lò sấy lại; người mua mới có niềm tin về một năm ăn nên làm ra. 
 
Phía sau nhà (như là một mái hiên nối dài) ông chủ vừa xây xong một lò khoảng ba ngàn ông Táo; lò sẽ đun hơn hai ngày, đợi nguội thì chất ra. Nhiên liệu là trấu gạo; dùng trấu nếp sẽ có chất nhựa, lúc đun lò bị ngún lửa, các ông Táo chín không đều. Trấu bây giờ cũng đắt hơn thời trước. Ông chủ lò tên Đức, thân hình nhỏ, thấp, râu dài… trông khá vui bởi nom hao hao… ông Táo. Mỗi lò như vậy, ông bảo hư ít nhất cũng gần trăm ông Táo, nhiều lúc hư vài trăm do nổ, bể, sứt mẻ. Khách nhập sỉ sẽ loại ra những ông Táo xấu. Người dân mỗi năm thờ một lần, chỉ mua một vài ông Táo nên họ chọn kỹ: mặt ông táo phải hồng hào và "đẹp trai”… 
 
Việc xây lò khá nặng nhọc. Người giàu kinh nghiệm cũng mất vài ngày kể từ lúc chất hàng gạch đầu tiên cho đến sắp ông Táo đầy, vào trấu. Phải là người lâu năm trong nghề, nhẫn nại, thường là trung niên và ông già. Họ phải thức đêm, cứ khoảng ba tiếng lại chêm trấu kẻo sụt lò. Canh lò mà ngủ quên, gặp gió lửa bung lên, hỏa hoạn có khi; kịp thời phát hiện thì đổ trấu lấp vào, nhưng sau đó khói sẽ ngút lên cay xè mắt mũi… Sắp ông Táo vào lò cũng phải tính đến mạch hở rộng hẹp; chỗ lửa lớn mà mạch to, nhiều ông Táo lên màu sành như người bị nám da cháy nắng, chẳng ai muốn rước về thờ.
 
Thời điểm từ tháng mười âm lịch đều đã có khách đặt trước, họ sẽ đến lấy lúc ông Táo ra lò vừa nguội, tích hàng bán dịp Tết. Những ông Táo được sắp vào từng hộp mì tôm. Gia chủ từ tháng 4 đã phải đi gom rơm khô vào bì cất lên giàn, dịp này đưa ra lót để sắp ông Táo kẻo vỡ. 100 ông táo 1 hộp, giá bán sỉ từ 30 - 50 ngàn, nhiều lúc thấp hơn. Ở chợ bán lẻ một ông Táo lại có khi giá từ 1 - 3 ngàn, nên người bán lẻ cũng kiếm được kha khá. Một thời trên thị trường xuất hiện ông Táo đúc bằng nhựa. Nhưng người dân xem qua rồi cũng lắc đầu và quay lại với ông Táo làm bằng đất truyền thống, vẻ như có hồn cốt và… linh hơn. 
 
Thờ cúng ông Táo là nét đẹp nhân văn của người Việt, dường như không mờ nhòa mà theo thời gian vẫn giữ được sắc thái như chính khuôn mặt của ông Táo trên mỗi phiến đất. Cũng không sợ nghề này thất truyền nhưng vẫn có sự đòi hỏi tấm lòng thành của người thợ để mỗi ông Táo được sinh ra từ đất Địa Linh sẽ có thêm chỗ dựa tinh thần đối với thuần phong mỹ tục ở mỗi gia đình. 
 
Theo daidoanket.vn
 
 
 
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Bên tả ngạn của sông Hương, cách thành phố Huế chừng 15 km về hướng tây, có một ngọn đồi người ta quen gọi là “Đồi thiên thần”, nơi nương náu của gần 50.000 thai nhi bị phá bỏ. 

  • Vào một buổi chiều, tình cờ đi quanh làng Dã Lê Thượng, phường Thủy Phương, tôi thấy chú Dương Văn Thọ (56 tuổi) ở tổ 01 (phường Thủy Phương, thị xã Hương Thủy) đang quét dầu cho chiếc ghe mới đan của mình. Trong trí nhớ của mình và những gì mình biết, tôi chợt nhận thấy bóng dáng của một cái nghề mà ngày xưa người làng mình đã làm: nghề làm, đan ghe thuyền. 

  • Dân làng vẫn truyền tai nhau tại gò đất bên cạnh thôn Tư bây giờ trước đây vốn là một bãi đất trống, nhưng sau một đêm mưa gió, sấm chớp đùng đoàng, đất trời rung chuyển, đến sáng ra đã thấy tượng Bà nằm sừng sững trên mặt đất, ...

  • Những ngọn núi linh thiêng trên mảnh đất di sản miền Trung thường gắn liền với những huyền thoại đẹp, mang âm hưởng tiêu dao. Tạm xa cuộc sống ồn ào nơi phố thị, bạn hãy thực hiện chuyến du hành tâm linh khám phá một trong số những ngọn núi linh thiêng, đó là Bạch Mã Sơn.

  • Đi từ Cha Lịnh, Mù Nú qua Khe Liềm (TT- Huế), nơi đâu cũng thấy dấu chân của những cán bộ kiểm lâm ngày đêm cắt rừng lội suối, bảo vệ những cánh rừng xanh của thượng nguồn Hương Giang, Ô Giang. 

  • Nếu có dịp dạo chơi trên con đường Kim Long thênh thang, lộng gió; sau khi ghé thăm lăng tẩm, thưởng thức món bánh ướt nổi tiếng xứ Huế bạn đừng quên dừng chân ghé lại trà thất Kim Long-chỉ đơn giản là để thả mình trong một không gian nhẹ nhàng, thư thái và khám phá hương vị thơm ngon của những tách trà ấm nóng dậy hương.

     

  • Cho dù đã trải qua nhiều biến động, thăng trầm của lịch sử, đấu trường Hổ quyền vẫn tọa lạc sừng sững, phảng phất chất uy nghi, và là một kiến trúc vô cùng quan trọng trong quần thể di tích đất cố đô Huế. 

  • Ẩn mình giữa rừng cây cối um tùm của thôn Kim Ngọc (xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế) là một túp lều đơn sơ bằng tranh tre nứa lá. Nương mình trong đó là một mái đầu đã bạc trắng vì sương gió, một gương mặt hằn đầy vết thời gian. 

  • Theo ông Bernard Dorival, Giám đốc Bảo tàng Nghệ thuật quốc gia Pháp, Điềm Phùng Thị là một trong những nhà tạc tượng tài hoa nhất của thời đại ông đang sống. 

  • Những năm qua, có không ít các tác phẩm văn học nghệ thuật viết về Ðại tướng Nguyễn Chí Thanh, một vị tướng văn võ song toàn, một nhà chỉ huy quân sự, một nhà lãnh đạo xuất sắc của Ðảng ta. Hướng tới kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của ông (1-1-1914 - 1-1-2014), nhà văn Trần Công Tấn đã kể những kỷ niệm về Ðại tướng đã thôi thúc ông viết cuốn tiểu thuyết Nguyễn Chí Thanh - Sáng trong như ngọc một con người.

  • Hỏi chiến trường nào gắn bó nhất với nhà văn Xuân Thiều, chắc chắn đó là Trị Thiên - Huế, chiến trường thuộc loại ác liệt nhất của đất nước ta ở cả hai cuộc kháng chiến. Từ tuổi 20, ông đã trực tiếp tham gia chiến đấu ở chiến trường này, và rồi gần như trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ ông bám trụ ở đây. Nhất là trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Đây không phải quê hương của Xuân Thiều (ông người Đức Thọ - Hà Tĩnh), nhưng là quê hương của đời lính, là quê hương văn học của ông.

  • SHO - Nhân 62 năm ngày Truyền thống Mỹ thuật Việt Nam, 56 năm ngày thành lập Hội Mỹ Thuật Việt Nam; chiều ngày 07/12, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Hội Mỹ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Mỹ thuật Việt Nam tại Thừa Thiên Huế phối hợp tổ chức Khai mạc phòng triển lãm Mừng ngày truyền thống Mỹ thuật Việt Nam 10/12 và Trao giải thưởng tác phẩm mỹ thuật xuất sắc năm 2013, diễn ra tại Trung tâm Văn hóa Phương Nam, số 15 Lê Lợi, Huế.

  • Dù nằm giữa thành phố Huế, nhưng Thủy Biều lại mang dáng dấp của một làng quê yên bình với khu vườn thanh trà ngát hương và những ngôi nhà rường hàng trăm năm tuổi.

  • Ngày 3/12, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế đã tổ chức họp báo giới thiệu các hoạt động nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1/1/1914 - 1/1/2014), tại Thừa Thiên - Huế (quê hương ông) và Hà Nội.

  • Ngày 01/12/2013, tại Nhà thờ Tam công Nguyễn Tri Phương (thôn Trung Thạnh, xã Phong Chương, huyện Phong Điền), Ủy ban nhân dân huyện Phong Điền đã tổ chức tưởng niệm nhân kỷ niệm 140 năm ngày mất của danh tướng Nguyễn Tri Phương (1873 - 2013.

  • Trải qua hàng trăm năm với bao biến thiên lịch sử, đến nay, cố đô Huế vẫn còn lưu giữ được những vết tích của một đấu trường độc nhất vô nhị trên thế giới - đấu trường Hổ quyền, đây không chỉ là nơi từng diễn ra những trận quyết chiến đẫm máu giữa hai loài voi - hổ, mà còn là cuộc thị uy quyền lực tuyệt đối của triều đại nhà Nguyễn. 

  • Chiến tranh đã đi qua, nhưng hậu quả của nó vẫn nặng nề tại nhiều vùng đất A Lưới (Thừa Thiên Huế). Vẫn còn đó những làng "da cam"-nơi những đứa trẻ sinh sau chiến tranh đang trực tiếp gánh chịu ảnh hưởng của chất độc da cam; nhiều đứa trẻ sinh ra rồi mất đi hoặc chấp nhận sống dị dạng giữa cuộc đời đầy nghiệt ngã. 

  • Từ ngày 27 đến 29-11, Bộ CHQS tỉnh Thừa Thiên - Huế tổ chức diễn tập chỉ huy, tham mưu một bên hai cấp với sự tham gia của Ban CHQS 9 huyện, thị, thành và huy động các đơn vị chủ lực của LLVT tỉnh tiến hành thực binh đánh địch đổ bộ đường không. Dự chỉ đạo diễn tập có Thiếu tướng Nguyễn Chí Hướng, Phó tư lệnh Quân khu 4, ông Lê Trường Lưu, Phó Chủ tịch UBND tỉnh…

  • Công trình đường tránh lũ dài 1,5km nối 2 thôn Tân Tô và Hòa Phong, thuộc xã Thủy Tân, thị xã Hương Thủy, Thừa Thiên- Huế, có tổng vốn đầu tư gần 6 tỷ đồng. Thế nhưng do thi công kiểu “rùa bò”, đã khiến hàng trăm hộ dân sinh sống trên địa bàn rơi vào cảnh “khóc dở, mếu dở”...