Ô Lâu và Hoàng Hạc

14:54 23/10/2020

HẠO NGUYÊN   

“Đành để hồn theo nước trôi không màu”
                              - Lời nhạc Phạm Duy 

Minh họa: Tô Trần Bích Thúy

1.

Thi thoảng, sau những “cơn địa chấn trong diễn trình đến cái chết” của tôi (trong ngoặc kép là chữ của Y), chúng tôi lại về nhà một người bà con của Y ở làng Phước Tích, Phong Điền.

- Để mày bớt ngu người.

Lần nào Y cũng nói vậy.

Và lần nào tôi cũng câm lặng.

Có những loài thú bị thương không bao giờ kêu than. Chúng lê thân về tổ, tự chữa lành hoặc nằm chờ thối rữa.

Còn tôi?

- Để tiếp tục bị thương, con trai ạ.

Y chế giễu ánh mắt Hamlet của tôi.

2.

Từ thành phố về làng gần bốn chục cây số, hai thằng cà nhong đạp xe mất hơn nửa buổi.

Huế, thời đó, với riêng tôi, là một mê cung sầu bi với những đường, những ngách dẫn vào mộng mị tăm tối. Những lăng tẩm, những đền đài, những nẻo đi về vắng lặng trong khuya, tiếng rao đêm hư vô mời mọc… là những điểm xuyết lấp lánh trên tấm áo huyễn ảo của tuổi làm quen cái chết.

Phước Tích là một cõi khác. Trong trẻo. Giòn tan. Nhưng không hề tỉnh thức như lẽ ra phải thế.

Ở đó, có những câu chuyện suốt đời tôi không thể kể ra bằng lời.

3.

Cũng như bao nhà khác trong làng, nhà bác của Y bao bọc xung quanh bởi hàng chè tàu xanh. Nhà gỗ ba gian lọt thỏm trong khu vườn rộng. Những hàng cau đêm ngày ngân nga giai điệu kì bí.

Bác trai đã mất.

Bác gái ngoài sáu mươi, hằng ngày gánh cơm hến đi bán các làng bên.

Chị Hạc, tên lót là Hoàng, giáo viên một trường tiểu học ở huyện. Chị Hạc, với đôi mắt không có hình dung từ nào khả dĩ để hình dung.

Bé Phượng đang học cấp hai.

Về đó, hai thằng như lạc đà sa mạc về trong ốc đảo.

Im lặng. Thở dài.

4.

Có chiều, tôi theo hai chị em ra bến Lò giặt giũ. Dòng Ô Lâu trôi trong ánh tím, bên tê là làng Hội Kỳ. Một con đò vắng phía kia bờ, gác mái hững hờ dưới rặng tre.

Chị Hạc bảo:

- Z về đây nhiều, ra bến ni nhiều, răng rồi cũng gặp…

Chị Hạc bối rối bỏ lửng câu nói, quay sang bé Phượng:

- Đưa chị lọ xà phòng.

Tôi nhìn hai người, buột miệng:

- Gặp gì?

Chỉ là hỏi vu vơ vậy thôi. Hồn trí tôi còn đang dõi theo con đò gác mái. Thoáng nghe tiếng tiêu vọng ra từ mui thuyền.

- Cái thuyền đó không phải ở làng ni.

Dường như đọc được suy nghĩ của tôi, bé Phượng lên tiếng:

- Cứ đến gần mùa trăng là lại thấy cái thuyền nớ đến đậu. Lạ cái là không bao giờ thấy chủ đò.

Chị Hạc ngẩng nhìn con đò bên kia, rồi nói một mình:

- Có những cuộc đời chẳng biết đợi chi.

5.

Những đêm ở lại, nếu có trăng, thế nào Y và tôi cũng mang rượu ra cây đa bến Lò để ngồi. Mặc kệ bác gái ngăn cản, hai thằng tôi vẫn cười khì tảng lờ.

- Tụi bây không nghe lời tau, có chuyện chi đừng trách.

Chị Hạc, những lúc như thế, thường ngồi lặng thinh bên trang giáo án, không ủng hộ cũng không phản đối. Chỉ thấy chị dừng bút, nhìn mông lung qua khung cửa sổ. Ngoài kia là đêm. Chị nhìn gì ngoài đêm? Chị thấy gì ngoài đêm?

Y vẫn lôi tôi đi. Không có chi mô bác.

Về đây không nhạc không tranh không sách vở, hai thằng im lặng nghe sông chảy. Đôi khi tôi cố tìm hình bóng con đò neo bến bên kia, nhưng không thấy.

Ngồi bên dòng Ô Lâu dưới trăng, cứ như vừa làm một cú rơi không tưởng xuyên qua mấy thế giới. Một mớ bản - ngã - lỗi tan rã dần trong tiếng cá đớp nước, tiếng gió rào qua đám cỏ lau, tiếng thở thì thầm của đất.

Và mỗi khi trăng đã chếch bên kia sông, lúc chuẩn bị về, thế nào cũng nghe trong xa xăm những lời tiếc nuối mơ hồ.

Tôi nhìn Y dò hỏi.

Y cũng nghe nhưng chỉ lắc đầu.

6.

- Em có một giấc mơ, lạ lắm.

Có lần đang ngồi bên hiên nhà, nhìn nắng ban mai len qua những tán cau, bé Phượng đến bên tôi, thủ thỉ.

- Mà không phải một lần.

Tôi lạ lẫm nhìn bé Phượng. Ở tuổi mười ba mười bốn, mấy ai mơ đi mơ lại một chiêm bao?

- Em mơ gì?

Phượng nhìn thẳng vào mắt tôi một hồi lâu. Không chịu nổi ánh nhìn đó, tôi giả tảng ngó lên trời.

Ngập ngừng một lát, cô bé cười:

- Em không kể đâu. Bây chừ anh chưa thể hiểu. Khi mô anh hiểu em sẽ kể.

Tôi nhìn cô bé như bị thôi miên. Ở độ tuổi này, tôi đã hiểu được những gì? Cuộc sống bày ra quanh đây quá nhiều hình tướng, chúng ta như cá bị bủa vây. Đến khi nào mới biết ngoài tấm lưới kia là gì?

Sau này rất nhiều năm, Phượng cũng không bao giờ kể với tôi về giấc mơ ấy. Đôi lần gặp lại, chỉ cười buồn:

- Anh vẫn chưa hiểu đâu, Z ạ!

7.

Có một lần về. Chủ nhật. Chị Hạc lên trường họp phụ huynh. Chiếc cub của chị không nổ máy. Tôi lấy xe đạp đèo chị đi. Con đường dọc sông Ô Lâu rợp bóng tre. Những mảnh vườn rì rào hương cau trong gió sớm. Nắng mới lên lấp lánh trên những tán lá còn đẫm sương.

Chị mặc áo dài, ngồi một bên, tay níu yên xe. Đường chông chênh.

- Z có bạn gái chưa?

Tôi cười trong hơi thở.

- Rồi chị. À…

- Sao?

Tôi im lặng. Những người con gái đi qua đời tôi trong quãng đời vừa rồi như những bông tuyết đậu xuống cành thông mùa băng giá. Để tan như chưa từng.

- Khi nào chị mới giới thiệu bạn trai?

Tôi hình dung chị đang nhìn mông lung.

- Chưa. Chưa đâu, Z.

Từ nhà đến trường của chị khoảng dăm cây số. Hai chị em vừa đi vừa trò chuyện nên không thấy xa.

- Khi nào có dịp, chị sẽ cho Z xem cái này.

- Cái gì chị?

- Bí mật. Khi nào có dịp, Z nhé!

8.

Bác gái bảo sở dĩ tau không cho tụi bây ra ngoài bến Lò buổi tối vì răng? Hồi xưa, đoàn thuyền đưa công chúa Huyền Trân vào xứ Chiêm có dừng lại đây mấy ngày để lấy thêm lương thực. Một cung nữ trong đoàn đã phải lòng trai làng xứ ni. Đến khi đoàn tiếp tục vào Chiêm, đi không đặng, ở không xong, người cung nữ đó trầm mình xuống bến. Hôm đó vào mùa trăng. Bởi rứa, cứ tới mùa trăng, ra bến đêm khuya là nghe những thở than.

Bác gái lại bảo: Tau sống gần bảy chục tuổi đầu, thấy tụi nhỏ bây chừ thương quá. Tôi hỏi vì sao. Bác gái bảo mấy đứa chừ sống buồn bã quá. Tôi bảo tụi con vui mà, có internet, có sách, có nhạc, có phim… Bác lắc đầu. Mấy thứ đó làm mụ mị con người chớ được chi mô. Rồi bác bảo hồi xưa vui lắm, lễ hội nhiều lắm.

Bác thở dài: Con Hạc sau ni là khổ lắm. Tôi im lặng. Đời ai mà không khổ hở trời? Bác nói: Không phải rứa, sinh ra làm người là khổ, cái đó Phật nói rồi, không tránh được, nhưng con Hạc thì khác, hắn ưng khổ, hắn tự tìm tới cái khổ. Tôi trầm ngâm, đã khổ thì tìm đến cái khổ hay chờ cái khổ đến có khác chi nhau. Bác gái cắt dòng suy nghĩ của tôi: Hắn không yêu ai mô. Bác lại thở dài. Tau biết hằng đêm hắn làm cái chi trong chiêm bao của hắn nớ, mà tau không can được. Tôi nhìn bác trân trối. Hắn có một cái hộp, giữ kỹ lắm. Tau biết mà không coi. Hắn cũng không cho tau coi mô. Nhưng tau biết, sẽ tới hồi hắn đưa cho bây coi.

Bác lấy que cời than. Những tia lửa bắn lên. Bác đăm chiêu một hồi, rồi tiếp: Mà tau dòm bây thấy cũng lận đận lắm đó Z nạ. Tôi cười. Bác lại thở dài.

Tôi đi ra vườn. Bóng chiều nhập nhoạng. Khói lam từ các mái nhà vương vất trên những hàng cau.

Một mình trong chiều tối, bỗng dưng lòng đau thắt. Cứ như ai đó vừa tọng vào ruột gan tôi một mớ bùi nhùi, không thể tiêu hóa được.

9.

- Tau chẳng để tâm.

Có lần tôi kể với Y về câu chuyện của chị Hạc, bé Phượng và những lời của bác gái cho hắn nghe.

- Ai cũng có một bóng tối của mình. Mi để tâm làm chi thêm khó sống. Nhưng cái chuyện nường cung nữ tự trầm đó thì tau biết lâu rồi.

Mắt Y bỗng sáng lên:

- Z ạ, tự tìm tới cái chết là một trong những phẩm giá phi thường của con người. Đương nhiên, tau không bàn đến các loại tự tử tào lao vì vỡ nợ, vì bị phụ tình, vì trầm cảm… Loại trừ những thứ đó, khi mi tự quyết thời điểm ngừng sống là mi đã đạt đến một tri kiến về diễn trình của chính mình.

Tôi nhìn Y ngao ngán. Chẳng hiểu sao cuộc đời gán thêm cho tôi một thằng bạn như thế này. Không có hắn tôi đã chẳng đủ bóng đêm sao?

10.

Một bữa bác gái đi bán, bé Phượng đi học. Thằng Y theo thuyền đi chơi sông. Chỉ có chị và tôi ở nhà, hôm đó chị không có tiết dạy. Tôi đang thẩn thơ trước sân thì chị gọi:

- Z, vào đây.

Giọng chị vừa hớn hở, vừa dè dặt.

Tôi vào. Chị đang ngồi bên giường, trên tay là chiếc hộp bằng đá màu trắng. Tôi sởn gai ốc.

- Chuyện gì vậy chị?

- Ngồi xuống đây.

Mắt chị long lanh. Tôi thấy đôi tay chị hơi run.

- Chị cho Z xem cái ni.

Chị nhìn xuống chiếc hộp, tôi nhìn theo. Những ngón tay chị âu yếm miết theo từng đường viền của nắp hộp. Rồi chị nhìn vào mắt tôi:

- Không hiểu răng chị làm việc ni. Nhưng chị biết chị phải nói bí mật của chị cho một ai đó. Nếu không thì chị không thể sống được.

Giọng chị gần như muốn khóc. Nhưng đôi mắt thì sáng lên những tia kỳ lạ. Chị làm tôi hình dung một người con gái trinh trắng quyết định hiến dâng đời mình, không vì lẽ gì cả, chỉ vì một thôi thúc duy nhất là được hiến dâng để thấy tính nữ của mình trong sự hiến dâng ấy.

- Không biết vì sao chị chọn em. Và tại sao là lúc ni. Nhưng chị có linh cảm nếu không phải là em, không phải trong sáng ni, thì không bao giờ có ai cả.

Suốt cả quãng đời sau này, những lời ấy cứa nát tâm can tôi. Nhiều đêm đang thiêm thiếp bỗng giật mình tỉnh dậy, mồ hôi túa ra lạnh tóc.

Nhớ nghe Z, nếu không phải là mi, không phải buổi sáng hôm ấy, thì bí mật của chị mãi mãi là bí mật. Và mi sẽ là tội đồ nếu mi không được chọn.

11.

Có những khuya ở đó, nửa đêm tôi quờ tay sang thì không thấy Y nằm cạnh. Cũng không lạ gì hắn nên tôi lại thiếp đi.

Để rồi trong giấc ngủ chập chờn gần sáng, chạm sang người Y thấy lạnh toát.

12.

Nhiều năm sau này trở về Phước Tích, bác gái đã già, nhớ nhớ quên quên.

Bé Phượng ngày xưa đã thành cô giáo, như chị Hạc ngày trước. Nhưng ánh mắt không còn như xưa. Cứ như luôn chực sẵn một cơn giông đêm trong đôi mắt ấy.

Tôi không bao giờ gặp lại chị Hạc. Dường như sau khi tiết lộ bí mật với tôi, chị không còn gì để giữ cho riêng mình.

Cứ thế mà trôi đi.

13.

Một lần, về lại phòng trọ trên Huế, khi đang uống rượu, thằng Y nhìn tôi bí ẩn:

- Mày biết những khuya ở làng tau đi đâu không?

Tôi lắc đầu. Mi như con ma xó, ai biết đi đường nào.

- Tau ra cây đa bến Lò.

- Làm gì?

- Gặp nường.

Tôi tròn mắt nhìn Y. Ai?

- Nường cung nữ tự trầm đó.

Trước khuôn mặt hác hốc của tôi, Y kể. Cứ gần khuya đêm rằm là nường về. Tau thường ngồi chờ dưới gốc đa. Nường đi quanh quẩn bãi ngô, rồi xuống gần bìa sông, ngồi khóc thầm. Xong thì hát. Tau đoán là mấy bài ca của cung tần hồi xưa…

Y cứ kể, tôi cứ nghe. Không biết nên tin hay không. Có thể hắn đã phóng tưởng những thiếu nữ trong tranh của hắn thành hình ảnh người cung nữ đã tự vẫn mấy trăm năm trước.

Cùng bạc mệnh như nhau.

14.

Chị Hạc nói:

- Chị không biết bắt đầu từ đâu. Thực ra, Z ạ, đây không phải là lần sống duy nhất của chị. Đừng hỏi, để chị kể. Từ nhỏ đến giờ, chị đã chết rất nhiều lần. Chết trong đêm và sống lại buổi sáng. Có lẽ gần trăm lần như rứa. Em không hình dung được chịu đựng việc đó như thế nào đâu.

Chị nhìn ra ngoài sân:

- Lần đầu tiên là hồi chị học lớp 5. Ba chị còn sống. Đêm đó đi ngủ. Nửa đêm thì chị thấy khó thở. Không phải sốt. Người chị lạnh dần. Nằm bên cạnh mẹ mà chị không thể gọi được. Không còn cảm giác chi ở tay chân nữa. Chị nằm đó, bên cạnh mẹ mình nhưng cách xa hai cõi. Nước mắt cứ trào ra. Sợ hãi và cô độc kinh khủng. Lúc đó chưa biết chi về cái chết. Rồi chị cảm nhận đến. Không phải xâm chiếm dần dần. ập đến. Nhưng không giống như cơn lũ ào ạt. Một khoảnh khắc vô tận. Rồi chị thấy mình lơ lửng giữa nhà, nhìn chính mình đang nằm trên giường, xanh mét. Lúc đó chị mới biết mình đã chết. Nằm trên giường chỉ còn là cái xác không hồn. Chị sà xuống lay mẹ dậy, nhưng không thể. Chị qua giường của ba, tìm cách lay dậy, nhưng cũng không được. Cứ rứa, chị lơ lửng. Và khóc.

Rồi chị la đà bay đi. Chị cũng không biết bay đến đâu. Xung quanh toàn khói. Không một tiếng động. Không một ai. Chỉ một mình chị bay đi. Z ạ, sau ni chị mới biết, cô độc là thể tính của chúng ta, sống cũng vậy mà chết cũng vậy. Luôn chỉ có một mình.

- Thế rồi…?

- Rồi chị tan đi trong khói.

- Nhưng…?

- Ừ, đến chừ chị vẫn không hiểu. Sáng đó ba mẹ lay dữ lắm chị mới tỉnh lại. Cảm thấy cơ thể mình lạ lẫm, cứ như trong một thân xác khác, phải mất mấy ngày mới làm quen. Lúc mới dậy vẫn còn lạnh toát. Mẹ phải lấy dầu nóng xoa khắp người.

- Bác gái bảo bác biết chị làm gì trong chiêm bao.

- Không biết đâu. Chị lắc đầu cả quyết. Và mỗi một lần sống lại như rứa, trong tay chị là một viên giống như đá, màu đen. Sau này nhiều quá, chị phải sắm cái hộp ni để giữ.

Tôi im lặng. Câu chuyện này vượt quá sức chịu đựng của tôi.

- Z có hình dung được không? Chết đi sống lại gần trăm lần như rứa, chị không còn gì để sống nữa. vắt kiệt chị. Chị sợ lên giường mỗi đêm. Chị sợ thức dậy mỗi sớm. Chị sợ những chiêm bao. Sợ cả khi lên giường mãi mà vẫn còn tỉnh thức. Chị sợ ngủ vì đến, nhưng cũng sợ thức vì sẽ biết đến.

Chị không khóc, nhưng tôi khóc. Tôi nắm bàn tay chị, chị dịu dàng xiết tay tôi. Rồi chị cười:

- Chị biết sẽ không thể một mình chịu đựng câu chuyện ni. Chị phải kể cho ai đó nghe, nhưng chờ miết gần hai mươi năm mà không gặp. May mà có Z.

Tôi nghiến chặt răng để nước mắt không trào ra nữa. Tôi có thể giúp gì cho chị? Tôi phải làm gì?

- Không cần phải làm chi hết. Chỉ cần Z giữ giùm chị chuyện ni. Rứa là đủ rồi. Rứa là chị có thể sống thêm chút ít nữa.

Buổi sáng đang nắng bỗng kéo âm u. Gió giông ùa về mù mịt. Một ánh chớp nháng chói lòa giữa bầu không.

Tôi rùng mình. Chị lại siết chặt tay tôi, ra dấu vỗ về.

- Rồi sẽ qua thôi em. Tất cả chuyện ni. Cả chị. Và em. Cũng sẽ qua thôi.

15.

Y sốt triền miên mấy ngày sau một lần về Phước Tích. Tôi phải gọi mấy đứa bạn bên Đại học Y qua chăm. Cuối cùng hắn cũng tỉnh lại, người xanh rớt.

Mở đôi mắt sưng húp vì những cơn mê triền miên, Y nhìn tôi, ánh nhìn vô hồn, giọng khô khốc:

- Nường đi rồi, Z ạ.

Tôi không nói gì, đưa cho Y cốc nước. Hắn gạt ra, thều thào:

- Nường nói là nường không bao giờ quay lại nữa.

Hắn gượng ngồi dậy nhưng lại nằm vật xuống, nói như mê sảng:

Rồi ngày cũng hết. Ngựa cũ không về Đồi Hồng. Thuyền xưa chẳng quay lại Bến Khuyết. Chỉ còn mi với bài kinh tụng dở. Chỉ còn mi với những cái bóng chết, những dấu chân chết, những ánh mắt chết…

Giọng Y nhỏ dần, nhỏ dần rồi im bặt.

16.

Hai thằng mượn một chiếc xe máy chạy về Phước Tích sau khi nghe cuộc điện thoại của bé Phượng:

- Chị Hạc đi rồi.

Hôm đó nắng nhạt. Xế chiều. Những ngọn gió uể oải lùa qua mấy khóm lau ven bờ Ô Lâu.

Dựng xe trước sân, hai thằng ào vào nhà. Bác gái ngồi thẫn thờ, tay còn cầm cái chày giã tiêu, ánh mắt như hóa đá.

Bé Phượng kể:

- Ăn cơm trưa xong chị thay bộ áo dài trắng, cầm cái hộp trắng. Mẹ đang mệt nằm trên giường, hỏi đi mô vì hôm ni chị không có tiết trên lớp. Chị nói ra ngoài có chút chuyện. Chị nói em chăm mẹ nghe Phượng. Rồi chị đi. Em thấy chị không dắt xe ra nên ngạc nhiên, cứ nghĩ ai đến đón chị. Vừa quay vô định nói mẹ, khi nhìn ra thì không thấy chị nữa. Em ào ra ngõ, kịp thấy bóng áo dài thoáng cuối đường rẽ xuống sông. Em chạy theo, nhưng đến bến Lò thì không thấy chi hết. Em dòm miết mới thấy mờ mờ bóng áo dài trắng giữa dòng…

Kể đến đó thì Phượng òa khóc.

Tôi khuỵu xuống. Hôn mê.

Mãi mấy ngày sau cũng không tìm thấy chị. Chính quyền xã tuyên bố mất tích vì không có chứng cứ để nói chị tự vẫn.

Hàng xóm qua lại hỏi thăm rồi cũng thưa dần. Ai cũng nghĩ chị đi đâu đó rồi quay về. Chỉ bốn người chúng tôi biết là chị đã bỏ chúng tôi đi, đi mãi.

17.

Trước lúc lên lại Huế, Y và tôi ra bờ sông, nhìn về cuối dòng Ô Lâu.

Trời chiều, khói sóng lên chờn chợn.

Cuối tầm nhìn, chỉ thấy lau lách và mơ hồ một hình bóng bay đi.

H.N  
(TCSH379/09-2020)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

  • LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.

  • NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.

  • PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.

  • MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.

  • MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.

  • ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.

  • PHAN TUẤN ANHLớp Lý trong một chiều nhốn nháo. Vài đứa con gái ngồi sụt sùi cho nhân vật nữ trong phim trên ti vi chết sớm và nguyền rủa đạo diễn như một tay giết người. Những đứa con trai thì tiếc rẻ cho một vài pha bóng hụt tối qua, để lại hậu quả là mất hẳn một "tháng lương" mà nhẽ ra đã có thể lĩnh sáng nay tại... chủ quán.

  • NGUYỄN VIỆT HOÀLGT: Khi ánh sáng phản chiếu từ mặt trái đồng tiền ùa vào cánh cửa làng mở rộng, “sức nóng” của nó gần như thiêu rụi mọi nền tảng đạo đức một bộ phận không nhỏ đám thượng lưu gồm cả quan viên hương lý. Căn bệnh mà tác giả Nguyễn Việt Hoà mổ xẻ trong truyện ngắn dưới đây, dẫu chưa cao tay để diệt bằng hết những vi-rút-làng, song việc ngăn chặn một đại dịch bắt đầu là có thể...S.H

  • TRẦN HẠ THÁP1/ Người đàn ông đang huơ rìu. Liên tục những bi củi tươi bị xé phanh, toang toác. Gió lạnh một buổi tàn đông, sắp Tết nhưng trên khuôn ngực mồ hôi loang lổ như mưa. Xóm lò heo. Buổi sáng chưa mở mắt đã hỗn độn, mù trời hơi nước. Cái thế giới được khoanh vùng bằng tiếng kêu bi thiết các con vật thảm tử. Mùi phân chuồng phát tán, nghẹt thở. Tiếng người lê la trả giá, mặc cả. Tiếng cười rộ lên đắc ý trộn lẫn tiếng chửi thề tục tằn đe doạ. Đâu đó, mơ hồ giọng trẻ con khóc và tiếng ru hò ngái ngủ xa xôi…

  • NGUYỄN NGỌC LỢITôi diện bộ "téc gan" quân nhu, dắt súng vào người, dặn dò cậu lái xe rồi hoà vào dòng người đi ra sân bay. Được giao nhiệm vụ về nước sắm hàng, gặp một sự kiện quan trọng, tôi không muốn bỏ lỡ dịp được chứng kiến. Thị xã Lộc Ninh năm 1973 đã trở thành thủ đô của chính phủ cách mạng.

  • THÁI BÁ TÂN…Con chim hung dữ màu đen là trọng tâm của bức tranh, được ông giành hết tâm sức miêu tả rất sống động. Trong tranh, nó đang bám chân vào ngực Prômêtê, xoè hai cánh giữ thăng bằng, chiếc mỏ khoặm ngậm một miếng tim vừa moi từ lồng ngực khổng lồ của chàng…

  • NGUYỄN ĐỨC SĨ TIẾNMọi người đến Huế với những lí do khác nhau. Riêng các văn nghệ sĩ thì thường đến để tìm cảm hứng sáng tác. Tuy nhiên ý tưởng của mỗi người thì mỗi khác, chẳng ai giống ai. Họa sĩ Vĩnh Trung và nghệ sĩ Hải Lý là một trong những trường hợp như vậy.

  • XUÂN ĐÀIChuyện thằng Thanh con cô Ngoan ở làng Đông cuối tháng này tổ chức đám cưới với con Thuý con cô Lâm ở làng Nổi, dân xã Vĩnh Sơn ai cũng tỏ tường. Cái đận cô Lâm có chửa, điều tiếng khắp làng, người ta đoán già đoán non về cha của đứa bé. Đoán vụng đoán trộm, thì thầm nhỏ to sau lưng, chứ thấy bóng cô đi ngang qua là họ im bặt. Nó mà nghe được nó tế cho! Nó vén mồm, vén váy, réo tên cúng cơm ba đời nhà mình ra mà chửi.

  • PHẠM THỊ XUÂNChị Xoan trở mình nhè nhẹ, sợ làm đứa cháu giật mình thức giấc. Chị quay mặt  vào tường như cố tránh cái ánh sáng xanh dịu phát ra từ ngọn đèn ngủ. Chị nhắm kín mắt nhưng vẫn không sao ngủ được. Đầu óc chị rối bời bao ý nghĩ. Có một cái gì day dứt, một cái gì tiếc nuối, một cái gì hẫng hụt vừa đi vào cuộc đời chị. Chị bỗng thấy lòng mình trống trải đến vô vị...

  • PHẠM THỊ XUÂNLGT: Ấn tượng của một nữ tác giả mới lần đầu tiên gửi tác phẩm đến cho TCSH thật khá đậm đà. Ấy là Phạm Thị Xuân, một phụ nữ ở độ tuổi đã qua thời thanh xuân, đang công tác tại một đơn vị y tế huyện Quảng Điền.

  • QUÝ THỂCó ai đến nhà chơi, bà cụ Tuần chỉ mép tấm phản gỗ mời ngồi, bà nói:- Giang sơn của "bầy choa" (chúng tôi) chỉ có chừng ni. Không ghế bàn, xa lông, sập gụ tủ chè chi cả, chịu khó ngồi đỡ, ông bà mô áo quần trắng trẻo sạch sẽ sợ dơ, thì ngồi lên đây. Bà cụ xoè cái quạt giấy cũ đã rách, lộ ra mấy cái nan tre lót cho khách ngồi. Nhưng không ai nỡ ngồi lên cái quạt giấy của cụ.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO...Sáng hôm ấy bà con xóm đạo đi lễ rất đông. Người ta nhìn thấy một vệt sao băng vào lúc trời tảng sáng. Họ cho rằng Chúa thấu hiểu được nỗi đau đang dày xéo trên thân thể Xoan. Nhưng cũng chính vì thế mà bố cô lại quay về làm chính con người liêm khiết hồi xưa. Thiên đường cũng có những con đường riêng để người ta sám hối.

  • XUÂN ĐÀI 1. Mỗi lần từ quê trở về Sài Gòn, sống bên chồng và hai đứa con, tôi không nguôi nhớ đến chị. Năm nay chị đã ngoài bốn mươi, không chồng, không con, lủi thủi ra vào trong ngôi nhà một gian hai chái. Ngôi nhà vừa được xây dựng cách đây gần ba năm bằng số tiền chị tằn tiện, chắt bóp mười mấy năm và tiền vợ chồng tôi phụ giúp chút đỉnh. Vài ba năm, vợ chồng con cái chúng tôi mới về thăm chị một lần. Chị mừng, chị vui, trò chuyện với các cháu suốt ngày. Chị quấn quýt lũ trẻ, lũ trẻ cũng quấn quýt chị.