HỒNG NHU
Tôi biết anh, đọc anh từ trong kháng chiến chống Pháp, nhưng mỗi người một đơn vị công tác, mãi đến năm 1972 mới gặp nhau. Đó là một ngày mùa hè, bấy giờ Đông Hà vừa mới được giải phóng.
Cố nhà thơ Hải Bằng và nhà thơ Hồng Nhu tại Hội văn học nghệ thuật Huế thập niên 90 - Ảnh: tư liệu
Tôi từ Vinh vào Quảng Bình chờ đoàn công tác Hà Nội vào để cùng đi Đông Hà. Tôi tìm đến nơi Hội Văn nghệ và Ty Văn hóa sơ tán tại một xóm nhỏ ven đồi cách Đồng Hới chừng mươi cây số.
Đang giữa trưa nắng nóng, Hải Bằng đánh quần đùi may ô lom khom, chăm chú làm cái gì đó ở chỗ vại nước nhà dân, nơi anh tá túc. Trần Nhật Thu bước vào, gọi to:
- Anh Hải Bằng ơi! Hồng Nhu mới ngoài kia vào ghé thăm anh đây này!
Hải Bằng ngẩng lên nhìn chúng tôi, “ồ” một tiếng rất vui vẻ. Cái tay tôi đưa ra để bắt tay anh bị hẫng bởi vì ngay lập tức anh im lặng, hơi nhíu trán quay đi, nhìn ngó đâu đó xung quanh ao, vườn của nhà chú. Tôi vội hỏi để chữa ngượng:
- Anh đang tưới cây đó à? Cây gì lạ vậy anh?
- À... à đó là thạch hộc loại chuyên mọc trên đá, mình mới kiếm được. Này, về chỗ Trần Nhật Thu nghỉ nghe, chờ mình chút!
Nói xong anh vớ chiếc cần câu dựng ở góc hè, quay lưng đi thẳng.
Chúng tôi trở lại nơi lán của Hội, ngồi nói chuyện được một chốc thì Hải Bằng xuất hiện. Mặt mày rạng rỡ, anh đưa cần câu lên. Đầu dây cần là một chú cá tràu to dễ đến bằng cổ tay. Anh gỡ con cá, quăng cho vợ Trần Nhật Thu:
- Rứa là có cái để thết Hồng Nhu, thôi tau về cái đã!
Nói xong, lại quay lưng đi thẳng. Trần Nhật Thu xòe ra cười, giải thích:
- Hóa ra bố nghĩ cách làm sao để câu cho được cá tràu mẹ giữa trưa và câu ở chỗ nào!
Nhưng rồi soong cá tràu kho nước tuyệt ngon ấy tôi không được ăn. Chả là khoảng nửa chiều Mỹ Dạ ở Hà Nội vào, kéo theo một đoàn văn nghệ sĩ đi chiến trường ghé lại: Trọng Loan, Bùi Bình Thi, Hồng Diệu v.v... Mỹ Dạ lo xa, sợ ở nhà bếp cơ quan hết gạo, trên đường về đã mua sẵn một túi bánh ướt. Sẵn có cá kho, thế là chúng tôi “ưu tiên" người đi chiến trường cái đã! Chúng tôi dọn ra. Đang đói bụng, lại phải nhanh để lên đường gấp cho kịp, chỉ xoẹt một cái, rổ bánh và soong cá kho đã sạch nhẵn.
Khách đi rồi, Hải Bằng trở lại thì mọi chuyện đã xong xuôi. Trong lúc chúng tôi cười vui, thì anh nghiêm mặt, chặc lưỡi xuýt xoa mãi, tiếc cho “bữa tiệc” anh dành cho tôi bị hỏng ăn!
...Lại nhớ hồi tôi mới trở về công tác tại Hội Văn nghệ tỉnh nhà. Nhìn cái cảnh cả “bầu đoàn thê tử” nhếch nhác của tôi, ngoài một đống sách vở ra chẳng có cái gì cả, anh ngẫm nghĩ rồi nói:
- Đi qua nhà mình, mình cho cái ni!
Lúc bấy giờ gia đình anh ở tại căn phòng tập thể của Công ty phát hành sách, chật chội và tối tăm. Anh lụi cụi leo lên gác lửng, lôi từ trong đống đồ đạc linh tinh ra một cái bàn và hai cái ghế xếp nhỏ, hất hàm:
- Chở về có cái mà ngồi. Bọn mình thì việc trước hết là viết, nghèo khổ đến đâu cũng viết, trời sập cũng viết, phải không?
Tôi chỉ còn biết đứng lặng nhìn anh mà nước mắt lưng tròng...
Cái bàn và hai cái ghế nhỏ ấy chính là nơi mà tôi đã ngồi viết suốt mấy năm ở tại gian hầm của 26 Lê Lợi...
Thế đấy, Hải Bằng là thế! Nhiều người trong giới văn nghệ chúng ta thường khó chịu với cái tính hay chỉ tay vỗ mặt của anh mỗi khi anh không đồng ý cái gì và với ai, nhưng ít người chú ý đến cái khía cạnh dịu dàng, tình nghĩa và nhân ái của anh, người thi sĩ đặc Huế này.
Trong cuộc sống thường ngày, Hải Bằng có vẻ căng cứng, thẳng thừng, nghĩ sao nói vậy, chẳng sợ ai, dù người đó là quan to chức trọng thế nào đi nữa. Nhưng thật ra, anh lại hay mềm lòng, mềm yếu là đằng khác; anh sợ bất cứ ai, bất cứ cái gì. Sợ vợ sợ con sợ người lớn đã đành, anh còn sợ cả con nít, trẻ con cũng bắt nạt được anh...!
Anh viết nhiều, người vốn yếu ốm như con mắm lẹp nhưng viết thì khỏe như voi, ít ai bì kịp. Có ngày anh “sản xuất” tới chục bài thơ, và nói cho công bằng là bài nào cũng đọc được, không có bài dở. Không phải người làm thơ nào cũng được như vậy! Có một lần anh rỉ tai tôi làm tôi vô cùng ngạc nhiên vô cùng sửng sốt: “Mình sợ lắm Hồng Nhu ơi! Sợ nên phải viết không ngừng, viết liên tục. Sợ nhất là chính thơ mình nó “chửi bới” mình!”.
Tôi lặng nhìn anh, chẳng hiểu ẩn ý của anh là gì. Mãi sau này tôi mới rõ. Cái sợ của anh là sợ ngòi bút mình viết không ra, viết không hay; sợ bạn bè vì sợ mình mà không dám chê; rồi sợ cả cho những ai vốn là người sáng tác mà không còn muốn sáng tác nữa! Anh kể: “Mình làm được bài thơ nào đều đưa cho bà Chiến (vợ anh) đọc, đó là người độc giả đầu tiên. Trăm lần như một, bà ta đều im lặng, chẳng khen mà cũng chẳng chê. Mình buồn lắm, chẳng biết làm sao để bà ấy mở miệng. Mình bèn nghĩ ra một cách. Mình đạp xe đi, chiều đạp về nói với bà Chiến: “Này, có bài thơ Phùng Quán mới làm gửi vào tặng anh đây, Chiến đọc thử coi!” Bà Chiến đọc xong, khen: “Hay quá! Thơ người ta làm như thế chứ!” Mình vỗ đùi, reo lên: “A, hay rồi đó nghe! Không phải của ông Quán mô. Của anh đó. Của Hải Bằng ta mới làm đó!” Bà Chiến trố mắt hỏi: “Của anh à?”. Rồi quay lưng đi xuống bếp, gióng với lại một câu: “Bây chừ thì không “hay” nữa!”
Kể xong, anh cười hể hả: “Rứa là được, thơ mình rứa là không tồi!”
...Người thi sĩ ngây thơ, hồn nhiên đó giờ đây đã vĩnh viễn ra đi ở cái tuổi bảy mươi. Căn bệnh ngặt nghèo mà anh đã chiến thắng nó suốt hơn 15 năm qua, giờ đã quật ngã anh. Hơn một tháng nằm bệnh viện, lúc mê lúc tỉnh; có lúc anh đã hồi phục, tưởng như Thần Chết một lần nữa phải khuất phục anh, “được anh tặng cho một tập thơ mang về âm phủ đọc rồi!” - nói vui như một bạn văn nghệ nào đó đã nói.
Mà đúng, cho đến hơi thở cuối cùng, anh vẫn làm thơ, làm ngay trên giường cấp cứu, trong một phút tỉnh lại. Đó là bài thơ ba câu viết trong ngày 2/7/98, năm ngày trước khi anh mất.
“Tôi thở bằng hai bờ sinh nhật sông Hương.
Hôm nay tôi sẽ chuyển lại hơi thở mình
cho Mẹ tôi chưa sinh tôi ngày ấy.
Cám ơn con đò sẽ chở tim tôi về từng bến mới”.
Bài thơ tuyệt mệnh chăng? có lẽ chưa đúng. Bài thơ như một tuyên ngôn tiếp tục sống. Trong đời thơ anh, Hải Bằng làm đủ loại: thơ tự do, thơ lục bát, thơ văn xuôi, thơ bốn câu, thơ hai câu... Nhưng thơ ba câu thì bài cuối cùng này là duy nhất.
Không biết vì sao tôi cứ tin rằng Hải Bằng giờ đây tuy đã vào cõi khác nhưng vẫn đam mê cái nòi thi sĩ, vẫn tiếp tục tìm tòi sáng tạo, cho ra đời một loại thơ mới của anh: thơ ba câu!
Có điều giờ đây ở cõi đời này, chúng ta không được đọc thơ anh nữa. Chẳng sao cả, những độc giả khác ở cái cõi vĩnh hằng kia, sẽ được đọc.
Người ở cõi nào cũng là người. Thơ ở cõi nào cũng là thơ. Và anh - Hải Bằng, ở cõi nào anh vẫn là thi sĩ...
H.N
(TCSH114/08-1998)
THÁI VŨ
Nguyễn Phúc Đảm (sau này là vua Minh Mạng), sinh năm 1791 tại Gia Định, là con trai thứ 4 của Vua Gia Long, Nguyễn Phúc Ánh, nối ngôi vua năm 1820 lúc 30 tuổi.
TỪ HỒNG QUANG
Thông thường, khi vui người ta nghĩ đến những điều vui và kể lại cho bạn bè nghe. Nhưng ông cha ta có câu: “Không ai nắm chặt tay từ sáng đến tối”. Lại có câu: “Bảy mươi chưa hết què, chớ khoe mình lành”.
ĐÔNG HÀ
Tôi không biết từ đâu, tôi lại tha thiết yêu những câu hát đẹp như mơ được cất lên từ chị, có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em đã nương theo vào đời làm từng nỗi ưu phiền…
HÀ KHÁNH LINH
Theo hẹn, tôi đến trước vài phút ngồi ở salon khách sạn Hương Giang - lơ đãng nhìn những người đi lại trong hành lang.
TRẦN NGỌC TRÁC
Như duyên nợ, chúng tôi đã đồng hành cùng nhau qua series ký sự “Trịnh Công Sơn nhẹ gót lãng du”(1).
PHẠM XUÂN PHỤNG
Vào đúng 9 giờ đêm 26 tháng 3 năm 1975, chúng tôi vui sướng đến nghẹn ngào nhận tin vui Huế đã được giải phóng qua sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam phát thanh từ Hà Nội. Tiếp đến là mệnh lệnh tất cả sẵn sàng hành quân về Huế. Không ai không mong chờ niềm vui ấy, nhưng những người lính quê Thừa Thiên, trong đó có tôi đều vui mừng vì sắp được trở lại quê nhà!
PHI TÂN
1.
Buổi chiều trên đường đi làm về thấy một chị phụ nữ bày bán những con heo đất bên vỉa hè màu xanh, đỏ, vàng, cam nhìn thật vui mắt.
PHẠM PHÚ PHONG
Hồi ức làm ta muốn khóc...
(Vasiliev)
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Vua Minh Mạng có 78 hoàng tử, được giáo dưỡng đàng hoàng, hầu hết các hoàng tử có học hạnh, hoàng trưởng tử trở thành vua hiền Thiệu Trị, một số trở thành vương công nổi tiếng như Thọ Xuân vương, Tùng Thiện vương, Tuy Lý vương…
NGUYỄN NHÃ TIÊN
Chưa bao giờ tôi được lội bộ đùa chơi với cỏ thỏa thích như bao lần khai hội Festival ở Huế. Đêm, giữa cái triều biển người nối đuôi nhau từ khắp các ngả đường hướng về khu Đại Nội, tôi và em mồ hôi nhễ nhại, hai đôi chân rã rời, đến nỗi em phải tháo giày cầm tay, bước đi xiêu lệch.
HÀ KHÁNH LINH
Bão chồng lên bão, lũ lụt nối tiếp lũ lụt. Miền Trung Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng chưa bao giờ phải hứng chịu thiên tai dồn dập khủng khiếp đến mức chỉ trong vòng trên dưới một tháng mà có đến sáu cơn bão mạnh với hai áp thấp nhiệt đới, đã cướp đi nhiều sinh mạng và xóa sạch tài sản của những con người suốt một đời chắt chiu dành dụm xây cất lên...
PHẠM XUÂN PHỤNG
Một buổi chiều năm 1968, chúng tôi nhận lệnh tập trung tại một khu vườn thuộc làng (nay là phường) Kim Long.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
Mười năm trước đây, một sự kiện văn hóa diễn ra tại Huế đã khiến nhiều người ngạc nhiên và tự hào: Huế từng có Nhà xuất bản Tinh Hoa xuất bản các ấn phẩm âm nhạc sớm nhất toàn cõi Đông Dương, sự kiện Gala Tinh Hoa - Sông Hương nhằm tôn vinh Nhà xuất bản Tinh Hoa. Sự kiện đó đã làm rung động nhiều trái tim yêu âm nhạc, nhất là những ai mê lịch sử Tân nhạc Việt Nam.
NGUYỄN THỊ TÂM HẠNH
(Dẫn liệu từ tuần báo Phong Hóa và Ngày Nay [1932 - 1940])
HÀ LÂM KỲ
Hồi ký
NGUYỄN QUANG HÀ
Tôi vốn là người lính. Sau Mậu Thân 1968, một số phóng viên báo Cờ Giải Phóng - Huế hy sinh, một số bị thương ra Bắc, tôi được thành đội trưởng Huế cử biệt phái sang làm phóng viên báo Cờ Giải Phóng, sau mấy năm thì trở thành phóng viên thật sự.
Kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế (18/9/1945 - 18/9/2020)
DƯƠNG PHƯỚC THU
NGUYỄN KHẮC PHÊ
"Đồng Khánh - mái trường xưa" là tên tập đặc san được phát hành tại Huế nhân kỷ niệm 75 năm ngày thành lập trường Đồng Khánh vào đầu tháng ba này.
Kỷ niệm 75 năm Cách mạng tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2020) và Quốc khánh (2/9/1945 - 2/9/2020)
DƯƠNG HOÀNG
BỬU Ý
Ngược dòng thời gian, nhẩm tính lại, tôi gặp Nguyễn Đức Sơn lần đầu tiên lúc nào? Chắc hẳn là dịp tôi làm thư ký tòa soạn cho tạp chí Mai.