Nữ sĩ George Sand và sự thăng hoa tình yêu

09:22 06/05/2009
TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

Nhà văn George Sand

George Sand là kết quả hôn phối của hai dòng máu quí tộc và bình dân. Cha là một sĩ quan trong quân đội hoàng đế Napoléon - đẹp trai, phóng túng, và đa tình. Mẹ là một cô gái nghèo và xinh đẹp - con gái của lão bán chim. George Sand lớn lên trong lâu đài Nohant thơ mộng, tràn ngập hương thơm cỏ cây hoa lá, dưới sự chăm sóc của bà nội - một quả phụ quí tộc quí phái, thông tuệ, có khiếu âm nhạc, nhưng nghiêm khắc và có phần độc đoán. Môi trường đó đã tạo nên một nữ sĩ George Sand với những tính cách đối nghịch: kỳ dị mà vẫn kỳ diệu, kiêu sa mà vẫn dân dã, yếu đuối mà vẫn bạo liệt.

Được thụ giáo bởi những chuẩn mực đạo đức của tầng lớp quí tộc, nhưng George Sand lại thiên về khuynh hướng bình dân có tư tưởng tự do. Tôn thờ lý tưởng tiến bộ của Leroux - nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng, G.Sand khao khát một thế giới đầy tình thương yêu và lòng bác ái. Đứng về tầng lớp lao động bị áp bức để đòi quyền sống, quyền tự do, bình đẳng; đứng về thân phận người phụ nữ để đòi giải phóng hạnh phúc cá nhân, tác phẩm của Sand đã bộc lộ một tư tưởng xã hội tiến bộ và một giá trị nhân văn cao cả. Tuy nhiên, sống vào giai đoạn mà "Mọi cái đã có thì không còn nữa, cái gì sẽ có thì chưa đến" (Musset - Lời thú tội của một đứa con thời đại), G.Sand cũng như nhiều nhà văn lãng mạn Pháp đã rơi vào bi kịch của thời đại. Bi kịch nhưng không bi thảm. Sống và sống hết mình bằng trái tim sôi nổi và cuồng nhiệt, tác phẩm của G.Sand đã phả vào người đọc một hơi thở nồng ấm và những khát vọng mãnh liệt.

Bạn đọc chú ý đến G.Sand không chỉ bởi những cuốn tiểu thuyết đồ sộ, hay chiều sâu tư tưởng xã hội, mà chính là sự đồìng cảm sâu xa, tuyệt đối về tâm hồn, nhất là tâm hồn người phụ nữ. Sand đã mở ra cho người đọc một thế giới đầy bất ngờ, thầm kín của  lĩnh vực tình yêu. Tất cả những gì được xem là bí ẩn, kín đáo nhất của sự đam mê xác thịt đã được G.Sand phơi trải một cách thành thực đến rớm lệ. Mỗi nhân vật là một lời tự thú tâm hồn, mà ở đó nhà văn biết lắng nghe tiếng nói của chính mình, lắng nghe những gì trái tim lên tiếng. Với nàng Lélia (trong tác phẩm cùng tên) xinh đẹp và đau đớn vì bất lực tình dục, Sand đã tự lột truồng bản thân mình một cách tàn nhẫn, táo bạo. Tôi muốn nói rằng, bà là nữ sĩ đầu tiên trên thế giới dám nói ra những điều mà bất kỳ phụ nữ nào cũng đã nghĩ đến nhưng không đủ can đảm để bộc lộ. G.Sand vĩ đại chính là ở điểm này.

Hầu hết tác phẩm của G.Sand đều mang tính tự thuật. Đó là thế giới nội tâm đầy bí ẩn và trắc ẩn của một người phụ nữ Pháp thế kỷ XIX. Indiana là cuốn tiểu thuyết tự truyện về cuộc đời của tác giả. Cuộc hôn nhân tan vỡ của bà Delmare trong tác phẩm cũng chính là cuộc hôn nhân tan vỡ của nữ sĩ lúc mười  tám tuổi. Tác phẩm là một bản tuyên ngôn hùng hồn về tình yêu tự do. G.Sand đã lớn tiếng tố cáo sự bất công của pháp luật trong hôn nhân. Bà đã phá tung mọi qui định khắt khe của xã hội và ngang nhiên công khai tình yêu tự do với những đam mê xác thịt.

Điều kỳ diệu nhất ở G.Sand đó là sự thăng hoa của tình yêu. Sand là người đàn bà "giàu năng lượng yêu đương" và biết yêu bằng tất cả sự cuồng si của trái tim. Những cuộc phiêu lưu tình ái đã giúp bà nếm trải được mọi sắc thái của tình yêu: thanh cao lẫn trần tục, tâm hồn lẫn thể xác. Bà là người biết tận hưởng những giá trị đích thực của tình yêu. Bà nói về tình yêu xác thịt và những khoái cảm của nó như một yếu tố tự nhiên của con người. Bà biết hoan lạc nhưng không trụy lạc. Bà không bị những nhục dục vật chất tầm thường lôi kéo để có thể biến mình thành hàng thú vật. Bởi Sand là nhà  nhân văn chủ nghĩa luôn có ý thức vừa thăng hoa phần người vừa tôn quí phần con. Sand quả là một nghệ sĩ lớn với những tình yêu lớn. Đằng sau những cuộc tình, nữ sĩ đã biết chắt lọc những hương nhụy tinh khiết để thăng hoa vào nghệ thuật. Hai mối tình tuyệt vời với nhà thơ Musset và nhạc sĩ thiên tài Sopin là một minh chứng hùng hồn về điều đó.

Chàng thi sĩ trẻ Musset đẹp trai, kiêu kỳ đã bị người đàn bà đầy sức sống này cuốn hút ngay từ lần gặp  đầu tiên. Bằng sự dịu dàng và tinh tế của người phụ nữ, Sand đã khơi dậy" tính chất thiên tài" ở người nghệ sĩ trẻ đang chán chường, tuyệt vọng. Mối tình đam mê và sống gió của họ đã để lại cho hậu thế những tác phẩm bất hủ (Lorenzaccio, Không đùa với tình yêu...). Những bài thơ tình tuyệt diệu của Musset chính là sự thăng hoa từ mối tình này (Đêm tháng năm, Đêm tháng chạp, Đêm tháng tám, Đêm tháng mười).


G.Sand thuộc về một thế giới thầm lặng và huyền bí. Ngôn ngữ không lời ấy có sức quyến rũ kỳ diệu đối với  thế giới âm nhạc, giúp Chopin sáng tạo nên những bản Sônát tuyệt kỳ. Chopin - nhà soạn nhạc Ba Lan nổi tiếng đã khước từ lời hứa hôn của cô gái mười tám tuổi - xinh đẹp, thông minh, để đến với một người đàn bà hơn mình sáu tuổi, điều đó cho thấy G.Sand có sức ám gợi đến mức nào!

Đây không chỉ là tình yêu thuần túy, hình như ở người nữ sĩ này còn có một điều gì. Tài năng? Cá tính? Sắc đẹp? Hay chính là trái tim yêu đương không biết mỏi? Tôi không cho rằng, "đôi mắt nhung êm mượt của dòng họ Dupin" hay tài năng viết laëch của nàng đã cuốn hút hai nghệ sĩ lớn này. Ở G.Sand còn có một đặc tính không thường thấy ở mọi người. G.Sand là người đàn bà có khả năng khơi dậy những "vùng mờ" tâm linh- thế giới sâu thẳm, huyền bí, nhưng cũng là nơi nhạy cảm nhất của người nghệ sĩ. Sắc đẹp hay yếu tố nhục thể trong tình yêu không phải là điều quan trọng nhất đối với những thiên tài. Trong sáng tạo, người nghệ sĩ luôn cần đến một tác nhân kích thích vào vùng mờ ẩn ức đó để có thể thăng hoa vào nghệ thuật. G.Sand đã giữ vai trò quan trọng đó đối với sự nghiệp sáng tác của A.Musset và Chopin. Không phải ngẫu nhiên mà sau cuộc tình với G.Sand, cả hai thiên tài này đều gặp nhau ở một cõi đêm - không gian đêm trong các thi phẩm và nhạc phẩm.

Dĩ nhiên, nói đến G.Sand không thể không nói đến sự thanh khiết và thành thực trong tình yêu, lòng bao dung và nhân ái tuyệt diệu ở bà. Theo các nhà nghiên cứu, trong tình yêu, G.Sand "luôn tỏa bóng như một người mẹ" và những người tình của nàng là những đứa con nhỏ yếu đuối, dễ thương cần được chở che. (Xin xem George Sand nhà văn của tình yêu - Nguyễn Xuân Khánh, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 2001).

Cuộc đời của nữ sĩ George Sand là một bài ca về khát vọng tình yêu, khát vọng sống và khát vọng sáng tạo nghệ thuật. Ở bà không có điểm dừng, nó như một cơn bão táp cuốn vào đó mọi đam mê, khát vọng.

T.H.S
(169/03-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.

  • INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.

  • TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.

  • HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.

  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.

  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi