Nữ quyền và những dư luận ở đầu thế kỷ XX

14:41 21/06/2023

CÁT LÂM

Bình đẳng giới, nữ quyền, những vấn đề tưởng như mới mẻ ở nước ta nhưng thực chất vấn đề này đã được luận bàn từ những năm đầu của thế kỷ XX.

Ảnh: internet

Những tư tưởng, quan điểm về nữ quyền được thể hiện trên sách báo đương thời đã được Lại Nguyên Ân và Nguyễn Kim Hiền sưu tầm và biên soạn trong cuốn Dư luận nữ quyền tại Huế (1926-1929) trên sách báo đương thời. Đây là một trong những cuốn sách nằm trong tủ sách Phụ nữ tùng thư (tủ sách Giới và Phát triển) của Nxb. Phụ Nữ Việt Nam công bố các công trình về vấn đề phụ nữ, hướng tới các nhận thức và thực hành quyền phụ nữ, cũng như đấu tranh cho nữ quyền, vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam và phát triển bền vững của đất nước.

Những quan điểm nữ quyền tại Huế

Năm 1926, trong khi nhật báo, những trang tin tức chưa thịnh hành thì Nữ công học hội ở Huế được thành lập, cùng với đó là những dư luận về nữ quyền được phát biểu tại Hội nằm trong các trường ở Huế. Những quan điểm về nữ quyền được các chí sĩ yêu nước như cụ Huỳnh Thúc Kháng, cụ Phan Bội Châu, Đạm Phương nữ sử phát biểu.

Theo đó, phụ nữ cần được đối xử ngang hàng với nam giới, phải được tôn trọng và được thực hiện các quyền bình đẳng với nam giới, từ lời ăn tiếng nói trong sinh hoạt cho tới việc học hành, sinh hoạt trong các hội nhóm và vươn mình, đồng hành cùng sự phát triển của xã hội.

Để làm rõ vấn đề này, trong bài diễn thuyết tại trường Đồng Khánh ở Huế, cụ Phan Bội Châu đã so sánh về cái nhìn đối với phụ nữ ở một số nước từ phương Tây tới phương Đông: “Tôi hằng ngày vì chị em mà trộm nghĩ thầm lo, tấm lòng tôi có khi đứt đôi đoạn, giọt lệ tôi có khi nhỏ đôi hàng. Khi tôi còn ở đất nước nhà, tôi những nghĩ ngược nghĩ xuôi muốn suy cho ra cái cớ vì sao như thế. Nhưng tôi chưa xét được rõ ràng. Đến khi tôi đi ra ngoại quốc, tôi thấy như nước Nhật Bản, Hoa Kỳ, nước Đức, nước Anh cho đến nước Trung Hoa, nước nào cũng có trường học cho con gái. Trường học gái có lẽ nhiều hơn trường học trai, danh giá các nữ học sinh so với nam học sinh cũng không chút gì thua kém...”.

Thông qua đó, người phụ nữ được nhìn nhận một cách trực diện từ những phẩm chất cao quý như đức hy sinh cho tới khả năng tự chủ, gồng gánh cuộc sống không thua kém đấng mày râu. Hơn thế, phụ nữ chính là những con người góp phần quan trọng cho sự phát triển của xã hội mà theo Đạm Phương nữ sử: “... một cái xã hội tốt hay là xấu là do tại gia đình tốt hay xấu, mà gia đình tốt hay xấu là do sự giáo dục của mỗi gia đình đối với mỗi cá nhơn mà tạo ra, đàn bà vẫn có một phần trách nhiệm trong cuộc tạo nhân kết quả ấy. Vì vậy mà gây dựng một cái gia đình tốt không gì bằng xây dựng một nền đạo đức luân lý cho phụ nữ thật hoàn toàn.”

Ngoài ra, các bài phát biểu đều nhằm khích lệ tinh thần người phụ nữ bỏ qua sự rụt rè, sợ hãi trước kia mà dấn thân vào đời sống mới cởi mở hơn, cổ vũ họ sống bằng lý trí, quan điểm của chính mình, nói lên tiếng nói của chính mình. Đưa ra các phân tích lý lẽ về thời cuộc, khoa học kỹ thuật, sự tiếp thu văn hóa phương Tây ảnh hưởng tới xã hội ra sao, bản thân người phụ nữ thế nào. Rồi rằng văn hóa phương Đông có nhiều điểm đã không còn phù hợp nữa. Nghĩa vụ của người phụ nữ là không thể ngồi im đợi thời đại xoay vần mà họ cần tham gia vào cuộc xoay vần của thời đại. Họ được tự do làm chủ cuộc đời mình, chịu trách nhiệm về quyết định mình đưa ra mà không phụ thuộc vào ai.

Những quan điểm ấy đã phá vỡ đi những suy nghĩ cũ mòn rằng phụ nữ phải chịu đựng phục tùng chồng con, ở nhà làm việc nhà, v.v.

Quan niệm nữ quyền trên báo Tiếng Dân (1927-1929)

Trước tình hình đất nước còn nhiều rối ren, báo Tiếng Dân xuất hiện với vai trò cập nhật tình hình chính trị trong nước lẫn quốc tế. Đây cũng là tờ báo cập nhật tình hình của cụ Phan Bội Châu khi bị Pháp giam lỏng ở Huế.

Các bài viết về nữ quyền thường được đăng trong mục “Phụ nữ diễn đàn”, “Độc giả luận bàn”. Một số tin tức liên quan tới phụ nữ được đăng trong mục “Việc trong nước”.

Liên quan tới vấn đề nữ quyền, không thể không kể đến những cái tên như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Đào Duy Anh, Đạm Phương nữ sử, Hoàng Khuê Bích, những người có công không nhỏ trong việc duy trì và phát triển cũng như lan tỏa tờ báo Tiếng Dân.

Ở các mục, các bài viết đã đi thẳng vào những vấn đề cụ thể đưa ra phương hướng nhằm cải lương, khẳng định vị trí của người phụ nữ. Và điều ấy được thể hiện rõ nét từ nhan đề của bài viết như: “Chị em ta nên có phụ nữ tạp chí”, “Chị em chốn thôn quê nên đọc báo và xem sách”, “Địa vị phụ nữ trong xã hội ngày nay”, “Phụ nữ đối với hòa bình”, “Đòi nữ quyền thế nào là chính đáng”, “Hiện tượng và tiền đồ của nữ giới nước ta”, “Đàn bà ta có đi xe đạp được không?”, “Chữ trinh”, “Phụ nữ có nên giải phóng không”, “Đàn bà Việt Nam có nên cúp tóc không?’, “Phụ nữ ta có nên sợ những lời mỉa mai không?”, “Chị em ta bây giờ đã nên hoàn toàn tự do kết hôn chưa?”, “Đàn bà An Nam có nên bỏ hẳn tục nhuộm răng không?”…

Không chỉ có các bài phát biểu, báo chí, thời gian này ở Huế cũng có cuốn sách nói về nữ quyền ở các nước là Phụ nữ vận động, do Dã Lan nữ sĩ (Đào Duy Anh) biên dịch. Cuốn sách giới thiệu các trào lưu lớn về phụ nữ ở một số nước như Anh, Pháp, Mỹ… Rồi việc phụ nữ tham chính ở Đức, Ý, Thụy Sĩ, Áo, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Trung Hoa, Nam Phi, Ấn Độ… Phụ nữ với xã hội, một phụ lục của sách Xã hội do Quan Hải Tùng thư xuất bản.

Những quan điểm trên báo Tiếng Dân nói riêng và dư luận trên sách báo về nữ quyền được đưa ra tại Huế đầu thế kỷ XX nói chung, vẫn rất tân tiến và có tính ứng dụng cao cho tới cả ngày nay.

C.L
(TCSH411/05-2023)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN THỊ KIÊN TRINH

    Mùa hè năm nay tôi có dịp trở lại Sài Gòn. Thành phố với bao đổi thay nhưng tôi chưa kịp nhận thấy hết bởi thời gian tôi lưu lại Sài Gòn quá ngắn ngủi.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Cũng lạ cho cái xứ Huế của tôi, cái chi cũng khác hơn thiên hạ. Nắng thì nắng cháy da phỏng trán, mưa thì mưa thúi đất thúi đai, dầm dề không dứt. Vài ba năm lại một trận lụt, trận bão to đùng.

  • BÙI KIM CHI

    “Tháng 7 nước nhảy lên bờ”. Mà lên bờ thiệt. Mưa. Mưa. Mưa… kéo dài lê thê. Lúc đầu nhỏ sau lớn dần. Nặng hạt. Xối xả. Cây cối trong vườn ngả nghiêng theo mưa và gió. Cây Lựu trước sân nhà tôi tơi tả. Trời tối dần. Mưa càng lúc càng to. Ào ào như thác đổ. Mưa suốt đêm. Sấm đất cuốn vào mưa. Ầm ầm. Ào ào. Âm thanh rộn rã…

  • Khi những giọt mưa ngâu tháng bảy bất ngờ trở về, làm xao động cả bầu trời mệt mỏi đang chìm lặng trong lòng sông Hương, Huế bỗng rùng mình chợt tỉnh cơn mê mùa hạ. Đó cũng là thời khắc mùa Vu lan đang về trên đất trời cố đô.

  • Hồi còn học ở Trường Đại học Sư phạm Huế, tôi có hai người bạn, hợp thành một nhóm, thường uống rượu với nhau khi vui cũng như khi buồn.

  • LTS: Tác giả của câu chuyện dưới đây, sinh ra và lớn lên ở làng quê Triều Sơn Nam, xã Hương Vinh, Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Anh sinh ra trong sự oan nghiệt khủng khiếp của cuộc sống khi buổi sáng mẹ anh quằn quại nghe tin đau xé mất chồng, buổi chiều mẹ đón nhận tiếng khóc chào đời của anh.

  • NGUYỄN LỆ BA

    Gia phả họ Nguyễn Quang ghi chép, tổ tiên chúng tôi là những người đã ra đi từ đất Huế. Thuở dong buồm về phương Nam đi tìm đất mới, những lưu dân đầu tiên đến dựng làng lập ấp trên vùng sông nước quê tôi chỉ vỏn vẹn vài dòng họ với đôi ba chục con người.

  • BÙI KIM CHI

    Đã có một lần tôi được trở về thăm Huế vào một mùa trăng. Cảnh vật thiên nhiên trời ban riêng cho Huế làm Huế duyên dáng và đẹp lạ lùng vào những đêm trăng. Trăng Huế vì thế mà có nét đẹp rất riêng, là lạ, duyên dáng, lộng lẫy và quyến rũ trong phong cảnh vừa thơ, vừa duyên và lãng mạn của trời đất Huế về đêm.

  • NHÂN KỶ NIỆM 50 NĂM BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC VỊ PHÁP THIÊU THÂN

    NGUYỄN BỘI NHIÊN

  • Một nam sinh như tôi lại học trường nữ trung học Đồng Khánh (trường THPT Hai Bà Trưng hiện nay), có thể một số người cho đó là chuyện lạ đời. Nhưng đấy lại là sự thật 100%! Tuy tôi chỉ học ở trường Đồng Khánh một năm lớp năm bậc tiểu học (bây giờ là lớp 1) vào khoảng những năm cuối thập kỷ 40 đầu thập kỷ 50 của thế kỷ trước. Nhưng không hiểu tại sao tôi lại còn nhớ nhiều những kỷ niệm về năm học đầu đời ấy mãi tới tận bây giờ.

  • TRIỆU BÔN
             Hồi ký

    Mùa mưa năm 1968 ở mặt trận đường Chín - Khe Sanh, trung đoàn 246 chúng tôi được gọi đùa là trung đoàn hai bốn đói. Ngày ngày chúng tôi sống bằng ba nguồn chính: thịt thú rừng, rau môn thục, và đỗ xanh.

  • NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi niềm đau đáu về quê hương, nơi mình được sinh ra và chắt chiu nuôi dưỡng trong từng hạt cát, từng trận mưa dầm dề thúi trời thúi đất hay nắng lửa trên cồn khô cát cháy, mà những con người ở đây sẵn mang một tấm lòng lồng lộng gió trời trải đi khắp muôn phương...

  • BÙI KIM CHI

    Tôi đang đứng ở đây. Bến xe đò Đông Ba của thế kỷ trước. Bùi ngùi. Xúc động. Bến xe đã không còn. Thật buồn khi nơi này đã vắng bóng những chiếc xe đò dân dã, thân thương thuở ấy cùng những tà áo trắng học trò dung dị với giọng Huế trong trẻo ơi ới gọi nhau lên xe kẻo trễ giờ học.

  • NGUYỄN VĂN UÔNG
                         Tùy bút

    Tuổi càng cao càng có nhiều nỗi nhớ vu vơ. Tôi đang trong tình trạng đó. Nhớ cồn cào đến xao xuyến là mỗi dịp xuân về: Nhớ Tết quê tôi. Nhớ tuổi thơ tôi và nhiều nỗi nhớ khác nữa.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Thuở nhỏ, tôi thường trốn ngủ trưa đi nghe hát vè. Ở Huế lúc ấy gọi là nói vè, như theo tôi phải gọi là hát vè thì đúng hơn, bởi người hát có bài có bản, có giai điệu, trầm bổng, có cả nhạc cụ.

  • HỒ XUÂN MÃN
    (Nguyên UVTƯ Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế)

    Năm 1973, để chuẩn bị cho ký kết hiệp định Paris, Khu ủy và Quân khu Trị Thiên - Huế chủ trương tổ chức các lực lượng (bao gồm cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) tổ chức đánh chiếm các căn cứ và phân chi khu địch để giành đất, nắm dân, cắm cờ giành quyền làm chủ.

  • TRẦN THỊ NHƯ MÂN

    Tôi sinh ra trong gia đình quan lại, đã mấy đời làm quan với triều đình Huế(1). Khi tôi lớn lên thì chế độ cai trị của thực dân Pháp đã bước vào giai đoạn ổn định sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Chiếc ngai vàng của nhà Nguyễn từ nay trở đi chắc không còn phải chịu những cơn sóng gió đáng kể chi nữa.

  • HUY CẬN - XUÂN DIỆU
          Trích "Hồi ký song đôi"

    Tháng 8 năm 1928 cậu tôi được lệnh của Sở học chính Trung kỳ đổi về Huế làm hiệu trường trường tiểu học Queignec ở phố Đông Ba.

  • LÊ QUANG KẾT
             Bông hồng dâng mẹ 

    Vua Tự Đức - ông vua tại vị gặp cơn biến động trong lịch sử dân tộc, sinh thời nhà vua đã tán dương công ơn mẹ: “Nuôi ta là mẹ, dạy ta cũng là mẹ: Mẹ là Thầy vậy. Sinh ra ta là mẹ, hiểu ta cũng là mẹ: Mẹ là Trời vậy”.

  • TRẦN HOÀN
                Hồi ký

    Năm 1941 thi vào trường Quốc Học, tôi đỗ vào loại khá nhưng chưa đủ mức để được cấp học bổng toàn phần.