Nói chuyện văn hóa với Huế

15:40 25/02/2022

PHAN NGỌC

Nói đến văn hóa ở thời đại kỹ thuật là nói đến biện pháp kinh doanh văn hóa, đổi mới văn hóa để làm đất nước giàu có, phát triển.

Ảnh: internet

Điều này là đặc biệt quan trọng đối với một trung tâm văn hóa quan trọng như thành phố Huế. Tiếc là cho đến nay chưa có một định nghĩa có tính chất thao tác. Đã có hàng trăm định nghĩa rồi, nhưng ngay trong những công trình văn hóa học nổi tiếng thế giới vẫn có sự lẫn lộn. Ai cũng nói đến văn hóa nhưng văn hóa là gì thực tế vẫn chưa ai xác định xong.

Tại sao thế? Vì trên trái đất này không có cái gì chỉ là văn hóa mà không là cái gì khác. Lại không có cái gì không có cái mặt văn hóa: Không khí, tầng ozone là một bộ phận của văn hóa môi trường đang làm cả thế giới điên đầu. Nếu không tìm được một định nghĩa thao tác luận cho thuật ngữ này thì cách nào văn hóa học (culturology) làm việc được? Ở một nước mà nhà nước có vai trò rất lớn trong đời sống nhân dân nếu không tìm được một định nghĩa thao tác luận cho thuật ngữ này thì sẽ xảy ra một trong hai việc sau đây. Một là văn hóa lấn sân, tức là nhảy vào mọi việc (chính trị, gia đình, kinh tế, tôn giáo, nghệ thuật...) mà khi làm thế, văn hóa học chỉ gây nên sự chống đối (ngấm ngầm hay công khai) bất lợi cho một sự lãnh đạo có hiệu lực. Hai là văn hóa bỏ trận địa, chỉ bàn tán suông toàn chuyện đâu đâu. Nếu làm theo một trong hai cách này thì Huế của tôi sẽ cứ khổ, cứ nghèo trong cái thời đại nó thừa sức làm giàu bằng kinh doanh văn hóa, trong cái thời đại mà sự chi tiêu về văn hóa ngày càng vượt xa, rất xa sự chi tiêu để tồn tại?

Tôi cố gắng nói giản dị, toàn chuyện hiển nhiên, mặc dầu công sức bỏ ra để đi đến cái bình dị này là lớn hơn rất nhiều so với một công trình uyên bác. Tôi không tranh luận với ai cả mặc dầu tôi thừa biết những câu chuyện hiển nhiên này là đề tài của vô số cuộc tranh luận.

Để sống con người phải lao động. Mà lao động theo kiểu con người là xây dựng một cái gì theo cái mô hình có sẵn trong óc anh ta. Đó là kiếp người. Còn là người thì anh ta còn phải thế. Từ cái ngày anh ta đẽo hòn đá đầu tiên đến giờ và mãi mãi sau này. Sự khác nhau chỉ là ở cái thế giới mô hình, ở cái thế giới thực tế. Nhưng mọi sự khác nhau này đều xuất phát từ một sự đồng nhất: nó quan hệ qua lại giữa cái thế giới biểu tượng gồm vô số mô hình với cái thế giới thực tế mà anh ta đã mô hình hóa.

Nghiên cứu cái thế giới biểu tượng ở tự nó, ở các biểu hiện trực tiếp của nó không phải là công việc của văn hóa học. Đây là công việc của triết học, tôn giáo học, nghệ thuật, văn học. Rồi mỗi ngành như vậy lại ngày càng chia nhỏ ra. Nghiên cứu cái thế giới đồ vật ở ngoài con người cũng không phải là lĩnh vực của văn hóa học. Đây là lĩnh vực của khoa học tự nhiên. Nghiên cứu cách con người tập hợp nhau lại để sống, để sản xuất và hưởng kết quả của cách sống, cách sản xuất cũng không thuộc văn hóa học. Đây là lĩnh vực của xã hội học, chính trị, kinh tế, pháp luật v.v...

Vậy đối tượng của văn hóa học là gì?

Đối tượng của văn hóa học là mi quan hệ qua lại giữa thế giới biểu tượng với thế giới hiện thực biểu hiện thành những kiểu lựa chọn th hiện thành một độ khúc xạ riêng có mặt ở mọi nh vực. Tùy phạm vi ảnh hưởng mà ta có văn hóa vùng (thí dụ văn hóa Huế), văn hóa dân tộc (thí dụ văn hóa Việt) hay ở một con người (thí dụ văn hóa Hồ Chí Minh), ở một biểu hiện của thế giới tinh thần hay thế giới thực tế (thí dụ văn hóa tuồng, văn hóa công nghiệp Nhật bản, văn hóa điêu khắc Chàm, văn hóa gia đình Việt nam, văn hóa cung đình triều Nguyễn). Mà xét độ khúc xạ thì phải xét cái gốc rồi cái hiện tồn để tính độ lệch. Giới thiệu văn hóa là làm việc gì? Là làm cho mọi người nắm được cái độ lệch ấy. Kinh doanh văn hóa là làm việc gì? Là làm mọi người hiểu cái độ lệch ấy, thưởng thức giá trị của nó, biết quý nó, chấp nhận kiểu lựa chọn của nó và khi cần bổ sung cho cách lựa chọn có sẵn của mình để cảm thấy mình giàu có lên về tinh thần, rộng rãi thêm về tư tưởng và nhân đạo hơn về tình cảm.

Xin nêu một thí dụ: cái bánh lá Huế. Cái bánh lá Huế là xuất phát từ cái péng lá Mường. Về chất liệu, tên gọi, cách cấu tạo là một. Nhưng từ cái péng Mường đến cái bánh lá Huế có một độ khúc xạ riêng không mấy ai nắm được. Đây là một kiểu lựa chọn huếen (xin phép được dùng một chữ Pháp vì tôi không dùng được một chữ Việt thích hợp) tiêu biểu ở chỗ: đế vương hóa một món ăn trên cơ sở một chất liệu rất dân dã. Kỹ thuật chế biến thay đổi, chiếc bánh mỏng tanh phải đặt trên đĩa sứ hoa văn để người ta thấy hoa văn ở dưới. Mọi thứ đều khiêm tốn, nhỏ nhẹ, thùy mị (chữ này theo tôi là hợp nhất, anh Nguyễn Tuân có sống lại cũng không chữa được) chứng tỏ cái tinh vi, tế nhị của một thành phố đã từng là thủ đô của nước Việt Nam khi nó rộng lớn nhất về đất đai, có ý thức nhất về văn hóa. Không phải ngẫu nhiên mà những công trình qui mô nhất về sử học, địa lý, điển lệ, hiến chương đều xuất hiện trong giai đoạn này. Ăn Huế không phải là "lai rai", "nhậu", mà là ăn theo lối "cảnh vẻ" (một từ Huế), với phong cách vua chúa gọi là "thời". Việc khảo sát cái góc của bánh lá là việc của anh Từ Chi, việc phân tích cái vị đặc biệt do bánh lá tạo nên là việc của nhà thực phẩm học, làm ra bánh lá là việc các chị, các bà ở Huế. Tìm ra cái độ khúc xạ, kiểu lựa chọn là việc của Văn hóa học. Kiểu lựa chọn này bạn sẽ bắt gặp ở mọi thức ăn: tôm chua, bánh măng, mứt, các thứ mắm, lối thái thịt, các thứ chè, đến cả thức ăn dân dã nhất là cơm hến. Ăn lấy no đối với người Huế là ăn "kiểu cu li xe". Ăn là để thưởng thức. Uống rượu say mèm không phải là uống rượu kiểu Huế: người ta chỉ đạt đến một chút lâng lâng. Mặc kiểu Huế không phải là lòe loẹt: cái đẹp ở đây là sự mộc mạc nhưng kết hợp hài hòa đến mức ảo diệu. Nhạc Huế không phải nhạc giật gân kêu gọi bắp thịt: Nó nhỏ nhẹ nhắc gợi những hình ảnh tha thiết của tâm tư. Ngay trong giọng Huế ta cũng bắt gặp một độ cao vừa phải không vang xa như tiếng Bắc, tiếng Nam, không quá thấp như tiếng Nghệ Tĩnh. Có một bài học về sự thanh lịch mà thành Tràng An có quyền giới thiệu với cả nước và nước ngoài: Một sự thanh lịch trong tầm tay của ta, không phải tốn tiền của, phí công sức.

Tôi đã nói văn hóa là kiểu lựa chọn. Nhưng có lựa chọn vì có tự do. Tôi làm thế chẳng phải vì ai bắt buộc mà vì tôi thích. Tôi có quyền làm khác cũng chẳng ai cấm nhưng vì tôi quen với kiểu lựa chọn của tôi. Anh không thích, anh chê bai nó đó là việc của anh. Nhưng muốn là người có văn hóa anh phải chấp nhận sự lựa chọn của tôi để tôi ngược lại chấp nhận cách lựa chọn của anh. Dĩ nhiên, sự lựa chọn là có nguyên nhân lịch sử, kinh tế, tôn giáo và cả chính trị nữa. Nhưng các nguyên nhân kia có thể mất đi hàng ngàn năm mà cách lựa chọn của tôi vẫn còn.

Tôi tự cho là vô thần, một khái niệm chỉ mới thịnh hành sau cách mạng, nhưng cha mẹ tôi chết thế nào tôi cũng cải táng trong một cái tiểu sành - hình ảnh tàn dư của lối chôn người trong vại - chôn lại ở nghĩa địa gia đình, rồi tôi lập bàn thờ đốt hương mời anh em đến ăn giỗ. Đây là những kiểu lựa chọn Đông Nam Á tuy bên ngoài khoác cái vẻ Hán hóa. Là người thế kỷ XX tôi vẫn thích ăn mắm, lấy nước mắm làm thức chấm chính như cách đây trên bốn ngàn năm. Trên người tôi mọi thứ đều Âu hóa: đầu tóc, quần áo, tôi bắt tay không chỉ nam giới mà cả nữ giới. Tôi viết tiếng Việt bằng một thứ chữ gốc châu Âu và bài văn tôi đang viết đây là suy nghĩ bằng tiếng Pháp rồi dịch ra bằng tiếng Việt. Là người thức nhận tôi biết nếu cứ viết theo cảm hứng tiếng Việt thì câu chuyện này sẽ gây nên vô số hiểu lầm bất lợi cho tôi. Ra cơ quan, tôi gọi thủ trưởng tôi là anh, gọi các vị lãnh đạo là bác. Ai gọi tôi kiểu Trung Quốc là tiên sinh, giáo sư thì tôi không thích. Tôi thích kéo xã hội về gia đình: Một cách ứng xử Đông Nam Á. Tôi sử dụng hệ thống thao tác của khoa học xã hội hậu công nghiệp đồng thời cố gắng sao cho cách trình bày không mâu thuẫn với chủ nghĩa Marx. Rõ ràng không làm gì có văn hóa không pha trộn, cô lập. Ở thế giới này mọi cái đan xen vào nhau. Cái độc đáo không ở yếu tố mà ở kiểu kết hợp.

Trở lại văn hóa Huế. Tôi không phải là đứa con của văn hóa Huế. Tôi là anh đồ nho xứ Nghệ, mà văn hóa Nghệ Tĩnh là tiêu biểu ở thái độ rạch ròi đến mức khô khan, cực đoan đến mức toán học. Biểu hiện bên ngoài của văn hóa ấy là cái gàn. Xét về thao tác luận gàn là làm theo cái mô hình trong óc, coi mô hình trong óc lớn hơn thực tế. Con người quê hương tôi không hòa mình vào cuộc đời như con người Nam Bộ mà thích nghi với cuộc đời bằng cách vạch giữa cuộc đời với mình một giới hạn cho phép anh ta sống với cái thế giới mô hình mà anh ta ham thích. Mặc dầu thế, tôi rất yêu văn hóa Huế, rất phục nó.

Nếu văn hóa Huế có sức mạnh chinh phục được tôi - một anh chàng không dễ chinh phục - rõ ràng tôi sống ở Hà Nội ít nhất từ 1954 mà vẫn không bị chinh phục - vậy cớ gì nó không chinh phục nổi hàng triệu con người? Theo tôi, có một cái gì chưa ổn. Huế không thể lôi cuốn thế giới bằng khách sạn năm sao, bằng các tiện nghi vật chất. Tiền của đâu mà đi con đường ấy? Muốn có các tiện nghi ấy việc gì phải đến Huế? Huế là Huế. Nó lôi cuốn thế giới bởi vì chỉ ở đây thôi anh mới hiểu được thế nào Huếen.

Muốn biết Huếen là gì phải biết cái đặc điểm chủ đạo của văn hoá Việt Nam. Tôi lấy một thí dụ: chiếc xe đạp. Đừng khó chịu khi tôi lấy chuyện chiếc xe đạp để bàn về văn hóa. Trang Tử lấy phân, nước tiểu để bàn về đạo vậy tôi cũng có quyền lấy chiếc xe đạp để bàn về văn hóa chứ sao?

Chiếc xe đạp không bắt nguồn từ Việt Nam. Đó là điểm thứ nhất. Nước Việt Nam không phải là Ai Cập, Ấn Độ, Trung Quốc, Hy Lạp. Nó không phải là nước tạo ra được những phát minh thay đổi được lịch sử văn hóa loài người. Tại sao? Không phải tự thân trí tuệ Việt Nam thua người ta. Đó là vì con người sống bằng lao động trí óc đơn thuần chưa ra đời trên chữ S này. Chưa có một người lao động văn hóa nào có cuộc sống no đủ. Vậy làm sao có thể có những phát minh lớn? Văn hoá trong lịch sử Việt Nam là nghề tay trái của những người sống bằng nghề khác nhưng chấp nhận những thiệt thòi cho bản thân để tranh thủ thì giờ múa bàn tay trái. Nhìn chiếc xe đạp ta có một khái niệm về văn hóa Việt Nam. Đó là văn hóa bricolage. Tuy không làm ra được chiếc xe đạp nhưng chỉ có người Việt Nam mới biết tận dụng mọi khả năng của chiếc xe đạp ở đó có cái gì cũng là đối tượng để chắp vá, hàn sửa, lắp cái này, thêm cái nọ để biến cái xe đạp thành một vật thần kỳ: chở hàng tạ, qua mọi địa hình. Biến cái bình thường thành cái phi thường bằng một tài lắp ghép tuyệt diệu, đó là đặc điểm của văn hóa Việt Nam. Cái tài chế biến, chắp vá, thêm bớt để đạt đến hiệu quả tối đa, đó là điều tôi nhận thấy trong mọi lĩnh vực kinh tế, quân sự, chính trị và văn học nghệ thuật, ngay ở cái vật ngó rất bình thường nhưng đã chinh phục thế giới là nem rán Việt Nam.

Huế phải giới thiệu cho thế giới biết cái kỹ thuật bricoler của nó. Muốn làm điều đó phải có sự phối hợp giữa dân tộc học, văn hóa học với các nghệ nhân Huế, có sự chỉ dẫn của các tay đặc Huế. Phải viết những công trình văn hóa học về thức ăn, về y phục, âm nhạc, kiến trúc... Là người thao tác luận, tôi không xét câu chuyện ở tư tưởng mà xét ở biện pháp. Một bộ Bulletin des Amis du Vieux Huế (Báo Đô thành hiếu cổ) là phải có. Không phải ngẫu nhiên mà chỉ ở Huế mới có tờ tạp chí độc đáo này. Đấy Huế của chúng tôi, nếu bạn muốn nghiên cứu. Bạn không có thì giờ thì tạm bằng lòng với một bữa ăn Huế, mỗi thức ăn đều có lý lịch của nó. Tùy dạ dày, bạn chọn một hai thứ rồi bạn sẽ hiểu thế nào là cái sang kiểu Huế: bình dị, mộc mạc nhưng vẫn sang. Bạn cần hiểu vua chúa Việt Nam không phải là một thiên tử Trung Quốc, một vua thần Đông Nam Á mà là một người giản dị. Bạn thích làm hoàng tử, công chúa Huế ư? tôi sẽ giúp bạn. Bạn sẽ có dịp sống vài ngày cái không khí đế đô được xây dựng lại. Bạn muốn hiểu nhạc Huế chăng? Tôi sẽ cho bạn biết bằng video một đoạn nhạc Chàm, một bài nhạc Trung Quốc rồi mời bạn thưởng thức cách bricoler của Huế. Cứ như thế, rất ít nhưng rất tinh. Phải đào tạo những nhà Huế học. Đầu tiên thì từng lĩnh vực. Sau đó là môn văn hóa Huế. Nem rán là thứ bình thường còn làm thế giới say mê. Nem rán làm được gì thì bánh măng làm được cái đó. Và đồ mỹ nghệ Huế, nhạc Huế làm được.

Mãi đến năm 1981 tôi mới vào được Huế. Nhớ Huế thì nhớ nhưng đâu có tiền? Và tôi làm sao có thể rút bớt một ngày lao động để đi chơi? Vào nội cung tôi chảy nước mắt. Người ta trồng khoai ở đây! Đành rằng khoai rất quan trọng nhưng trồng khoai ở đây là xúc phạm đến văn hóa. Cả một nước Việt Nam chỉ còn lại một kinh đô bảo tàng. Là người xứ Nghệ, xứ của thiết thực mà tôi còn không chịu nổi thì làm sao khách du lịch chịu nổi? Thiết thực quá là gốc của nghèo đói.

Cuối cùng và quan trọng hơn cả là câu chuyện sau đây. Thực vật học đã chứng minh cùng một giống lúa trồng ở vùng thổ nhưỡng khác nhau thì kết quả khác nhau. Con người phức tạp gấp vạn lần miếng đất. Nó là một ẩn số chưa ai tìm ra được lời giải đáp. Con người Huế là một ẩn số. Tôi là một ẩn số. Một tư tưởng, một thành tựu văn hóa hay kỹ thuật tôi tiếp thu đều bị khúc xạ qua cái lăng kính là chính tôi. Nghiên cứu một tư tưởng ở tự nó, trong lĩnh vực tư tưởng không phải là việc làm của văn hóa học. Đó là việc làm của triết học. Nhưng nghiên cứu độ khúc xạ của tư tưởng ấy trong xã hội, gia đình, văn học, nghệ thuật lại không phải đối tượng của triết học mà là đối tượng của văn hóa học. Nghiên cứu triều đình Huế ở tự nó là nhiệm vụ của sử học, nhưng nghiên cứu các độ chênh của triều đình Huế so với triều đình Thanh lại là việc làm của văn hóa học. Tìm cho ra cách người Việt bricoler văn hóa Đông Nam Á, văn hóa Hán, văn hóa Pháp, văn hóa XHCN rồi văn hóa hậu công nghiệp - là việc làm của văn hóa học. Chỉ có nắm được những nhân tố chính của con người Việt Nam thì mọi công việc ta làm mới tránh được vấp váp hết làm rồi lại đổi, hết xây lại phá, công sức bỏ ra quá lớn mà kết quả lại quá ít.

Tôi hy vọng tờ Sông Hương góp phần vào công việc bricoler được một nền văn hóa Huế nhưng vẫn hậu công nghiệp và hiện đại hay một nền văn hóa hậu công nghiệp hiện đại mà vẫn cứ là Huế. Ấn tượng an ủi tôi nhất khi thăm lại Huế năm 1981 là Huế đã trụ lại được trước sự tấn công của văn hóa Mỹ, Huế là tấm gương cho nhà văn hóa học nhận thấy thế nào là sức mạnh của văn hóa Việt Nam. Tôi kêu gọi mọi người tự cho mình là có văn hóa góp toàn lực cho Huế mãi mãi là quê hương văn hóa trong nội tâm mình.

P.N.
(TCSH51/09&10-1992)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.