Niệm khúc cho mưa Huế

15:18 19/11/2008
VÕ NGỌC LANNếu cuộc đời người là một trăm năm hay chỉ là sáu mươi năm theo vòng liên hoàn của năm giáp, thì thời gian tôi sống ở Huế không nhiều. Nhưng những năm tháng đẹp nhất của đời người, tôi đã trải qua ở đó. Nơi mà nhiều mùa mưa lê thê cứ như níu giữ lấy con người.

Là người Huế, tôi cảm nhận xứ sở mình có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông khá rõ. Dầu sao Huế cũng chỉ là vùng đất có hai mùa mưa - nắng nhưng cảm nhận về thời khắc đôi lúc lại khá mơ hồ. Bởi lẽ đang giữa mùa nắng, tự nhiên mưa từ đâu kéo đến, mà không phải mưa rào để đến rồi đi mà mưa dai dẳng, rả rích từ ngày này qua ngày khác. Có ai ví mưa Huế khó hiểu như một o con gái Huế và thâm trầm, khó hiểu như bản tính của người dân Huế. Nói đáng tội, mưa làm răng giống người mà đem so sánh, chi lạ rứa?
Với Huế, một cơn mưa kéo dài đôi ba ngày vốn rất bình thường. Vì có lúc mưa cả tuần, cả tháng, có khi mưa cả... hai năm, từ năm cũ bước sang năm mới. Huế không mưa mới là chuyện lạ. Mưa Huế là tổng hợp của những con mưa lâm thâm của miền Bắc hay ào ạt trút nước của miền , chỉ khác chăng mưa Huế kéo lê thê như mái tóc của nhiều o con gái. Những lúc Huế mưa mới thấy nhà thơ Nguyễn Bính phải than thở quả thật không sai, khi màn mưa giăng kín và bầu trời chỉ một màu xám đục. Tưởng như những cơn mưa ấy không bao giờ dứt hạt.

Mưa thì bao giờ cũng lạnh. Cái lạnh của Huế không chỉ đến trong mùa Đông mà do những cơn mưa kéo dài, có điều mưa mùa thu hay mùa hạ thì là những đợt lạnh để làm duyên con gái. Mưa mùa Đông hoặc giêng hai mới gọi là rét ngọt, rét cắt, lúc ấy “con gái tốt cũng hư”. Người ta gặp nhau trước khi cất tiếng chào là tiếng xuýt xoa, hít hà vì lạnh. Nhiều năm Huế mưa, kèm theo đợt lạnh kéo dài có khi nhiệt độ ngoài trời xuống 8 độ C hay 7 độ C. Lúc ấy mọi hoạt động của con nguời đều diễn ra âm thầm trong mưa. Có những lúc mưa đêm, rét như cắt da vẫn nghe trong đêm khuya tiếng rao của những người bán hàng rong lầm lũi trong mưa.

Cái sự mưa của Huế rất cắc cớ. Mưa không ai biết tại sao đến, có khi cần nó lại biệt tằm tăm. Có khi nó như một kẻ phá bĩnh dễ gai đến không chịu được. Như rứa mới là mưa Huế. Như khi trời đang ngày Tết Nguyên Đán, chợt u ám rồi mưa. Thà mưa phùn cho thiên hạ có cớ để khoe áo da áo kép, đây lại mưa tầm tả như trút hết nước từ trên trời xuống. Lúc ấy mọi nguời chỉ biết bó gối ngồi trong nhà làm khách của chính mình trong ba ngày Tết. Quan trọng lắm, thân tình lắm người ta mới mặc áo mưa sù sụ đến nhà chúc Tết nhau. Người Huế đã quá quen với cảnh mưa tới không đúng lúc đó, có người an ủi đầu năm mưa móc như vậy thì may cho cả năm, người bàng quan thì “có rứa mới thấy món mứt gừng, nước trà là tuyệt cú mèo”. Chỉ có bọn con nít là buồn vì mưa không mặc được áo mới, không được chạy ra ngòai để đánh bài vụ và cả không được lì xì vì ít khách đến thăm. Chuyện “mưa lâu thấm đất” thật ra chẳng ăn nhập chi với người dân Huế và mưa Huế cả. Bởi mưa Huế làm đất thấm lâu ngày đến mức trả về số 0, bao nhiêu mưa xuống là cứ ào ạt để chảy, chảy xuống chỗ trũng, chỗ thấp. Không có chỗ để chảy nữa thành ra nước ứ. Mưa úng ngập cả cây cối là vậy. Mưa quật tới tấp vào cây lá. Mưa xói từng bờ đá. Mưa vuốt mặt không kịp.

Người già có kinh nghiệm nhìn nước mưa có màu hơi đục hay ngả sang sắc tím, là biết mưa còn kéo dài và trời sẽ rất lạnh. Những vũng nươc mưa trước sân mỗi nhà, lúc đầu làm bọn trẻ háo hức làm thuyền giấy để thả hay thi nhau ra lội làm các bậc cha mẹ phải lo lắng vì sợ con mình cảm lạnh. Chơi chán rồi thì thôi, chúng rủ nhau ra đường lớn đi lội mưa hoặc xem người ta cất rớ. Trời mua dọc các bờ sông đều có người rớ cá, họ sắp một hàng dài từ sông Hương đến vào sông Đông Ba hay chạy dọc theo sông Bạch Yến, trông rất vui mắt. Hồi ấy, sao cá đâu mà nhiều vậy không biết? Hình như mùa mưa, cá sông cá hồ lại có dịp sinh sôi nẩy nở hơn nhiều. Lúc ấy, mấy chị nữ sinh tha hồ ăn diện. Áo len màu, áo mưa màu, trông mấy chị không khác gì mấy viên kẹo chanh xanh xanh, đỏ đỏ trong mấy cái thẩu, rất ngộ. Nhiều bữa mưa, được nghỉ tiết sau, bọn học trò con gái không thích về nhà lại ưa đi dầm mưa, rồi kéo nhau vô Đại Nội nhìn mấy chiếc Cửu Đỉnh xem người ta nấu vạc dầu hồi xưa như thế nào. Sau đó thì kéo nhau ra rạp hát Bà Tuần để xem hát bội. Nghe nói trời mưa coi hát bội rất thú. Tôi chưa hề có được cái cảm giác ấy, bao giờ cũng về sớm vì rất sợ bị la và nhất là mẹ tôi rất trông. Với chút ngỗ nghịch rất con trai, lúc nào đi học về gặp mưa tôi cũng xắn quần lên cao không như bạn bè chung quanh hay các chị nữ sinh khác, cứ để hai ống quần che kín mít chân. Vừa ướt, vừa dơ vì bùn bám vào. Hơn nữa, họ lại rất sợ bày chân ra cho người khác thấy, dị lắm. Bởi rứa trời mưa, trường Đồng Khánh cho học sinh mặc áo dài tím, cái màu rất hiền và buồn như những cơn mưa Huế ấy, hóa ra đã tạo cho nữ sinh trường Đồng Khánh một nét rất riêng thật khó quên. Cũng như nhiều người dân Huế quen đi dưới mưa rồi nghiện, khiến mưa Huế trở thành một biểu tượng gắn bó thân thiết vì “chưa ướt tóc nghĩa là chưa yêu Huế” (Văn Công Toàn).

Mưa đã đành lại kéo theo lũ lụt. Có lẽ mưa nhiều quá nước tràn đầy sông Hương, sông chảy ra biển không kịp nên ào về thành phố. Lúc ấy, nước cuồn cuộn chảy vào từng xóm, từng đường. Quái ác thay trời mưa lại nặng hạt thêm “Ông tha mà bà chẳng tha”. Rõ ràng là ông bà chằng nào đó đã hợp đồng với nhau để làm nên lũ lụt rất ai oán, để nước mỗi lúc một dâng cao. Ngày trước, chưa có hệ thống dự báo khí tượng thủy văn thông báo chính xác như bây giờ, nhân dân đoán biết lũ lụt qua kinh nghiệm dân gian như kiến làm tổ trên cao, cỏ gà trắng mọc ngoài đồng nhiều... còn thông thường mưa lâu, nước sông Hương dâng cao là biết sắp có lụt. Bởi vậy nhà nào cũng kê thêm giường, ghế, trừ khi lũ quá cao như lụt năm 1953, 1999, thì chịu.

Mỗi năm Huế chịu hai ba cái lụt cũng là chuyện hàng năm. Cứ điểm sơ sơ qua mấy cái lụt đã mang tính quy luật của Huế như “tháng bảy nước nhảy lên bờ”, lụt tiểu mãn, lụt hai ba tháng mười... chứ chưa kể lụt do áp thấp nhiệt đới, do ảnh hưởng của mấy cơn bão mang tên mấy cô đào Holywood... đủ thấy Huế mưa ơi là mưa, lụt ơi là lụt. Lúc mưa nhà nào mái tranh, mái bằng còn hạn chế tiếng mưa rơi, nhà tole, nhà ngói thì nghe tiếng mưa đồm độp, rào rào. Mưa mùa lũ gió quật mạnh vào vách, vào cửa sổ, tưởng như nhà cửa sắp rung rinh đến nơi. Ban đầu người ở vùng cao lụt nước chưa tới thì thích được đi lội lụt, thích tụm năm tụm ba vọc nước cho thỏa thích. Cá nước lụt bán đầy nơi chân cầu Gia Hội, thế là nhiều người đi lội lụt để mua được cá rẻ. Sau đó thì lụt mỗi lúc mỗi cao và lụt cả làng, hơn nữa nước cao quá cũng không đặt chân xuống đất được. Lúc này mọi sự giao thông đều giải quyết bằng ghe bằng đò, hoặc bằng mấy cái bè chuối kết được. Mỗi lần mưa, vùng Đập Đá bao giờ cũng ngập trước, nên vùng này chỉ cần ở hai đầu con đập là đã qua lại bằng đò. Học trò các trường mà ở vùng Đập Đá là được cho về trước, đứa nào cũng rất khoái. Sau đó các vùng như Kim Long, Đò Cồn, Bãi Dâu đều chìm trong nước lụt. Đây là những khu vực ngập sớm nhất ở Huế, càng lúc cả thành phố ngập trong lũ và mưa, chẳng biết sông Hương nơi đâu là bờ nữa. Khi ấy, cầu Trường Tiền như một tiêu điểm để xác định vị trí thành phố.

Thường lụt ở Huế ngâm từ ba ngày đến bốn ngày, mấy ngày lụt nhiều khi có chuyện óai ăm là mưa bỗng ngưng và mặt trời lại lên rất rực rỡ, cứ nghĩ như ông trời đang đi hỏi thăm sức khỏe từng nhà vậy. Lụt mà có nắng thì an tâm hơn là bị mưa, nó làm con người như lạc quan hơn một chút. Thường lụt đi rồi, vẫn còn một vài trận mưa lớn mà các bậc cao niên gọi là “mưa xối bùn” rất chi là chí lý. Như vậy làm người Huế chỉ cần hiểu mưa Huế dai dẳng nhất nước. Mưa Huế là Huế mưa không diễn tả được, mưa “vô hậu”, mưa thúi đất thúi đai. Mưa quất từng sợi nước vô mặt đến rát mắt, mưa làm móp cả hai tay vì lạnh và mưa làm người đi trong mưa phải bám hai bàn chân vào mặt đường kẻo ngả. Có khi đi đối diện với nhau mà cũng không thấy mặt người vì màn mưa xối xả. Vậy mà người Huế vẫn có cái thú đi dạo trong mưa, có lẽ họ muốn chiêm nghiệm hoặc giải tỏa một suy nghĩ dưới mưa chăng? Đừng ước ao “anh lạy trời mưa phong tỏa đường về” vì ở Huế mưa người ta cũng về, cũng đi ra đường, trừ phi người ta muốn mượn danh nghĩa một cơn mưa nhưng chuyện đó ở Huế thì “xưa nhất Diễm”. Tại sao những cơn mưa kỳ diệu của Huế quyến rũ như thế, người ta lại không đưa nhau đi dạo dưới mưa để có thêm một kỷ niệm, khi những cơn mưa đã gắn bó thiết thân với con người Huế?

Có một lần ở Cali, Trần Kiêm Đoàn lái xe chở Lưu Trần Nguyễn và tôi đi uống cà phê nhằm lúc trời mưa, làm tôi nhớ Huế đến kỳ lạ.
Phải có những người đồng hương, đồng điệu và cùng “đồng tha hương” cùng đi với nhau trong mưa, cùng nhấp nháp tí ca - phê mà nhìn mưa bay để nhớ cảnh trời mưa Huế thì mới hiểu được nguồn cơn của niệm khúc.
Mùa mưa. Dòng sông của Huế như in đậm vào tâm khảm của tôi. Tôi ao ước được tắm mình mãi trong những cơn mưa dai dẳng của Huế. Tôi phổ nhạc bài thơ Mưa Huế của Hồ Đắc Thiếu Anh bằng một tình yêu Huế, yêu những mùa mưa Huế. Chứ với vốn nhạc lý ít ỏi, tôi nào dám mong mình sẽ làm được chút gì góp mặt với Huế. Bởi vậy khi nghe Vân Khánh hát thành công, tôi đã không kìm được những giọt nước mắt vui sướng. Những giọt nước mắt của tôi, có đủ làm nên một sợi mưa Huế không? Tôi vẫn ao ước như thế.
V.N.L

(nguồn: TCSH số 203-204 – 01&02 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN XUÂN HOA

    Năm 1776, trong sáu tháng làm quan ở Huế, có điều kiện ghi chép những điều mắt thấy tai nghe, đọc kỹ văn thơ ở vùng đất Thuận Hóa để viết tập bút ký Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn đã đưa ra một nhận định mang tính tổng kết: Đây là vùng đất “văn mạch một phương, dằng dặc không dứt, thực đáng khen lắm!”.

  • Ở thời điểm năm 1987, GS Trần Quốc Vượng là người đầu tiên nêu quan điểm cần đổi mới tư duy lịch sử, nhận thức đúng sự thật lịch sử và thảo luận tự do, dân chủ, rộng rãi, trong đó có vấn đề xem xét lại nhà Nguyễn và thời Nguyễn.

  • ĐỖ XUÂN CẨM 

    Thành phố Huế khác hẳn một số thành phố trên dải đất miền Trung, không chỉ ở các lăng tẩm, đền đài, chùa chiền, thành quách… mà còn khác biệt ở màu xanh thiên nhiên hòa quyện vào các công trình một cách tinh tế.

  • KỶ NIỆM 130 CHÍNH BIẾN THẤT THỦ KINH ĐÔ (23/5 ẤT DẬU 1885 - 23/5 ẤT MÙI 2015)

    LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Huế, trong lịch sử từng là vùng đất đóng vai trò một trung tâm chính trị - văn hóa, từng gánh chịu nhiều vết thương của nạn binh đao. Chính biến Thất thủ Kinh đô 23/5, vết thương lịch sử ấy ăn sâu vào tâm thức bao thế hệ người dân Cố đô.

  • KIMO 

    Café trên xứ Huế bây giờ không thua gì café quán cốc ở Pháp, những quán café mọc lên đầy hai bên lề đường và khi vươn vai thức dậy nhìn xuống đường là mùi thơm của café cũng đủ làm cho con người tỉnh táo.

  • LTS: Diễn ra từ 10/6 đến 22/6/2015, cuộc triển lãm “Thừa Thiên Huế: 90 năm báo chí yêu nước và cách mạng” do Hội Nhà báo tổ chức tại Huế, trưng bày các tư liệu báo chí hết sức quý giá do nhà báo, nhà nghiên cứu Dương Phước Thu sưu tập, đã thu hút đông đảo công chúng Huế. Nhiều tờ báo xuất bản cách đây hơn thế kỷ giờ đây công chúng được nhìn thấy để từ đó, hình dung về một thời kỳ Huế đã từng là trung tâm báo chí của cả nước. Nhân sự kiện hết sức đặc biệt này, Sông Hương đã có cuộc phỏng vấn ngắn với nhà nghiên cứu Dương Phước Thu.

  • MAI KHẮC ỨNG  

    Một lần lên chùa Thiên Mụ gặp đoàn khách có người dẫn, tôi nhập lại để nghe thuyết minh. Nền cũ đình Hương Nguyện trước tháp Phước Duyên được chọn làm diễn đài.

  • LÊ QUANG THÁI

    Việt Nam giữ một vị thế trọng yếu ở ngã tư giao lưu với các nước của bán đảo Ấn Hoa và miền Viễn Đông châu Á.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
                            Tùy bút

    Mối cảm giao với Túy Vân khởi sự từ sự tạo sinh của đất trời trong lớp lớp mây trắng chảy tràn, tuyết tô cho ngọn núi mệnh danh thắng cảnh thiền kinh Cố đô.

  • PHẠM THÁI ANH THƯ

    Trong giai đoạn 2004 - 2013, nền kinh tế tỉnh Thừa Thiên Huế (TTH) đạt mức tăng trưởng khá cao so với mức bình quân của cả nước, cơ cấu kinh tế chuyển dịch hợp lý theo hướng du lịch, dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Đồng hành với mức tăng trưởng đó, nhiều nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước đã đến đầu tư tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Một số nhà nghiên cứu đã chú tâm tìm kiếm nơi an táng đại thi hào Nguyễn Du ở Huế, sau khi ông qua đời vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (16/9/1820).

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN 

    Sông Hương vừa là cột mốc làm chứng vừa là biểu tượng cho dáng đẹp sương khói, “áo lụa thinh không” của lịch sử thăng trầm về hình bóng Huế.

  • ĐỖ XUÂN CẨM

    1. Đôi điều tản mạn về Liễu
    Người Á Đông thường coi trọng luật phong thủy, ngũ hành âm dương, họ luôn chú trọng đến thiên nhiên, cảnh vật và xem đó là một phần của cuộc sống tinh thần.

  • TRƯỜNG PHƯỚC  

    Đất nước hòa bình, thống nhất, thực hiện công cuộc đổi mới phát triển đã 40 năm. Những thành tựu là có thể nhìn thấy được. Tuy nhiên, muốn phát triển, công cuộc đổi mới cần được thúc đẩy một cách mạnh mẽ có hiệu quả hơn nữa.

  • LƯU THỦY
     
    KỶ NIỆM 40 NĂM GIẢI PHÓNG THỪA THIÊN HUẾ (26/3/1975 - 2015)

  • LÊ VĂN LÂN

    Một mùa xuân mới lại về trên quê hương “Huế luôn luôn mới” để lại trong tâm hồn người dân Huế luôn trăn trở với bao khát vọng vươn lên, trả lời câu hỏi phải tiếp tục làm gì để Huế là một thành phố sáng tạo, một đô thị đáng sống. Gạt ra ngoài những danh hiệu, kể cả việc Huế chưa trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, vấn đề đặt ra đâu là cái lõi cái bất biến của Huế và chúng ta phải làm gì để cái lõi đó tỏa sáng.

  • THANH TÙNG

    Ở Việt Nam, Huế là thành phố có tỉ lệ tượng lớn nhất trên diện tích tự nhiên và dân số. Không chỉ nhiều về số lượng mà còn đạt đỉnh cao về chất lượng nghệ thuật, phong phú về đề tài, loại hình, phong cách thể hiện.

  • ĐỖ MINH ĐIỀN

    Chùa Hoàng giác là một trong những ngôi cổ tự nổi tiếng nhất xứ Đàng Trong, được đích thân chúa Nguyễn Phúc Chu cho tái thiết, ban sắc tứ vào năm 1721. Tuy nhiên, vì trải qua binh lửa chiến tranh chùa đã bị thiêu rụi hoàn toàn. Dựa trên nguồn sử liệu và kết quả điều tra thực tế, chúng tôi cố gắng để phác thảo phần nào nguồn gốc ra đời cũng như tầm quan trọng của ngôi chùa này trong đời sống văn hóa cư dân Huế xưa với một nếp sống mang đậm dấu ấn Phật giáo.

  • TRẦN VĂN DŨNG

    Cách đây đúng 500 năm (1514 - 2014), tại ngôi làng ven sông Kiến Giang “nơi cây vườn và dòng nước cùng với các thôn xóm xung quanh hợp thành một vùng biếc thẳm giữa màu xanh mênh mông của cánh đồng hai huyện”(1) thuộc xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, cậu bé Dương Văn An, sau này đỗ Tiến sĩ và làm quan đến chức Thượng thư được sinh ra đời.