Niê Thanh Mai và hành trình nhập cuộc không ngừng nghỉ

14:44 09/07/2021

HOÀNG THỤY ANH

Dấu ấn, cá tính của nhà văn thể hiện rất rõ trong cách xử lý cốt truyện, khai thác tâm lý nhân vật, sử dụng ngôn ngữ, xây dựng hình tượng,… Và tất cả những yếu tố này còn ít nhiều bị ảnh hưởng, khu biệt bởi đặc trưng văn hóa nơi nhà văn sinh ra.

Ảnh: internet

Niê Thanh Mai không ngoại lệ. Đọc chị, dễ thấy bản sắc văn hóa Tây Nguyên được liên kết chặt chẽ trong cái nhìn đậm tính nữ. Tập truyện “Phía nào sương thôi rơi”1 đã minh xác tính văn hóa đặc thù riêng khác đồng thời khẳng định những đóng góp của chị đối với văn học dân tộc thiểu số nói riêng và đời sống văn học nước nhà nói chung.

Mỗi dân tộc đều có những nét đặc sắc, độc đáo, đậm dấu ấn vùng, miền. Chất liệu cuộc sống và con người Tây Nguyên như phong tục tập quán, sinh hoạt cộng đồng, nhà ở, ẩm thực, trang phục, cảnh sắc thiên nhiên,... đều có mặt trong truyện của chị: chiếc gùi mây, bếp lửa giữa nhà, cầu thang 7 bậc, rượu cần trong ché, canh cà đắng, lá bép xào, thịt trâu gác bếp, giã gạo dưới gầm sàn, dệt vải, tục bắt chồng,… Vẻ đẹp khỏe khoắn, mặn mòi, tươi trẻ của người Tây Nguyên được chị tô đậm qua những hình ảnh: người con gái với làn da màu nâu nâu, mắt to, buồn mênh mang, bắp tay bắp chân rắn chắc và thơm ngát mùi hoa rừng; đàn ông với khuôn mặt sáng sủa, vồng ngực săn chắc, bắp tay bắp chân cuồn cuộn vạm vỡ,… Những cách nói đậm hơi thở của núi rừng, mộc mạc, chân chất và lối ví von so sánh gần gũi, quen thuộc, vốn là cá tính riêng, tư duy riêng của người Tây Nguyên cũng được chị đưa vào vừa phải, hợp lý trong các truyện: “Giá như cầm được cái sào mà chọc. Vác được cái cây mà đuổi…” [tr.7]; “cái nhìn giận dữ, phừng phừng như lửa” [tr.6], “lay lắt lớn lên như cây dây leo bám vào cổ thụ lớn lên từng ngày” [tr.12], “Cay như thể vừa cắm mặt giã xong cối ớt xanh” [tr.13], “Lòng Dung chùng xuống như sợi chỉ căng trên khung dệt không đều” [tr.116]. Bản sắc đặc thù của văn hóa không chỉ được lồng ghép vào lối sống, nếp ăn nếp nghĩ chân thật, rạch ròi phải trái, hồn nhiên như cỏ cây của con người Tây Nguyên, mà còn thông qua hình ảnh những người phụ nữ. Theo chế độ mẫu hệ, người phụ nữ trong truyện của chị vẫn giữ vai trò chủ động, thể hiện sự ảnh hưởng của mình đến đời sống vật chất lẫn tinh thần của gia đình và của cộng đồng. Sự chủ động trong việc kiếm tìm tình yêu, bắt chồng; quyết đoán mọi việc trong gia đình; và sự chăm chỉ, đảm đang, giàu lòng vị tha, hy sinh của người phụ nữ đã phản ánh rõ nét văn hóa mẫu hệ của các dân tộc bản địa Tây Nguyên. Vì vậy, nhìn vào tính cách, số phận cũng như vị thế, vai trò những người phụ nữ trong truyện của chị sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về đặc trưng văn hóa mẫu hệ khó trộn lẫn của đồng bào Tây Nguyên.

Điểm nhìn trần thuật trong tập truyện của Niê Thanh Mai chủ yếu xoay theo hai dạng. Dạng thức trần thuật ngôi thứ nhất theo điểm nhìn đơn tuyến xuất hiện ở các truyện như “Làng của cha tôi”, “Sớm mai thoang thoảng”, “Hôm qua trời lất phất mưa”, “Cây thằn lằn lá xanh”, “Trời bảng lảng sương”, “Đêm dài hun hút”,… Dạng thức trần thuật ngôi thứ ba theo điểm nhìn bên trong xuất hiện ở các truyện như “Gió thổi thì buốt sống lưng”, “Phía nào sương thôi rơi”, “Hoa giấy bao giờ thôi rực rỡ”, “Thương anh bằng núi bằng sông”,… Điểm chung của hai dạng trần thuật này là người kể chuyện thường đứng ở điểm nhìn nữ giới, do nhân vật nữ trong truyện đảm nhiệm vai kể hoặc trần thuật ngôi thứ ba theo điểm nhìn nữ giới. Niê Thanh Mai tạo ra người kể chuyện, chị là người có vai trò quan trọng trong việc kết nối giữa tác phẩm với bạn đọc, là người bộc lộ quan điểm, tư tưởng của mình trong tác phẩm, nên điểm nhìn của chị hẳn nhiên có sự chi phối đến người kể chuyện. Do thế, tiếng nói, góc nhìn của chị ảnh hưởng không nhỏ đến việc lựa chọn đề tài, nội dung của tập truyện. Đề tài của chị chủ yếu nói về tình yêu, hôn nhân, những bất ổn trong đời sống gia đình. Trong đó, nổi bật nhất là số phận người phụ nữ ở hai vùng miền khác nhau: miền núi và miền xuôi. Họ đều có cuộc đời éo le, truân chuyên, bi kịch. Họ chấp nhận mọi đắng cay, tủi cực, chiến đấu đến cùng với số phận bằng niềm tin bất diệt vào tình yêu, bổn phận và lẽ sống riêng của họ. Din thiệt thòi khi Y Siên không thèm để ý đến mình, chỉ thích cô gái ở buôn Lum, nhưng cô vẫn cam chịu mọi nỗi buồn, chờ đợi, tìm mọi cách để Y Siên hiểu tiếng lòng của mình (Thương anh bằng núi bằng sông). Nếu không đi cùng với người mình yêu, mình chọn, họ chọn giải pháp ở giá, xin làm con nuôi trong gia đình người từ chối mình như người đàn bà trong “Làng của cha tôi”. Nếu người đàn ông phụ bạc, họ vẫn là người con dâu của gia đình như H’Dương trong “Gió thổi thì buốt sống lưng”. Không phải họ bế tắc, không tìm ra lối thoát, mà bởi ý thức về bổn phận và trách nhiệm trong họ quá lớn. Sự cam chịu, bao dung, chờ đợi, hy sinh của họ cũng là con đường, là giải pháp để họ đấu tranh, đòi quyền được yêu thương với người mà họ muốn đi cùng đến suốt cuộc đời. Trong truyện của chị, vẫn có những người phụ nữ nổi loạn, bứt phá khỏi rào cản định kiến và của chính bản thân họ. Phen về làm dâu chứ không bắt chồng, chồng chết, chị cũng đến với người khác, dù rằng mọi cố gắng của chị chưa vượt qua được rào cản của các hủ tục, nhưng ít ra, đó cũng là khoảnh khắc để chị được là chính mình, được quyền bộc lộ nỗi niềm yêu thương (Mật đắng). Kiểu người phụ nữ ngoại tình như nàng trong “Ngày mùa đông khép lại”, người phụ nữ không chịu nổi cực khổ đã dứt khoát từ bỏ tổ ấm gia đình chạy theo tiếng gọi vật chất như mí H’Di trong “Gió thổi thì buốt sống lưng”,... xét ở góc độ nhất định, phần nào đó cho thấy sự trỗi dậy ý thức về giới. Ý thức về giới đã cho nàng thấy được giá trị quan trọng của đời sống gia đình. Ý thức về giới cho H’Di hiểu được cái giá phải trả khi từ bỏ gia đình. Tính lưỡng cực mà Niê Thanh Mai đặt ra, làm tròn bổn phận và giải phóng cực hạn, cho thấy quan niệm về tình yêu và hôn nhân của các nhân vật nữ rất mới mẻ và tiến bộ, họ không chấp nhận, yên phận trước những luật lệ hà khắc, cũ kỹ, họ muốn thực hiện quyền được là chính mình, được sống đúng với cái tôi của mình. Đó là mí, một người phụ nữ hết lòng thương yêu con dâu, bất chấp những thêu dệt lạc hậu của bà con trong “Mật đắng”. Đó là mí, đã cởi bỏ những định kiến để đứa con của mình được sống với tình yêu và hạnh phúc mà bấy lâu nay nó luôn mong mỏi trong “Đừng uống rượu trước hiên nhà”. Đó là mí, người rất mực yêu thương con dù mình không đứt ruột đẻ ra trong truyện “Phía nào sương thôi rơi”. Đặt người phụ nữ trong mối quan hệ gia đình, soi chiếu họ bằng cái nhìn cùng giới, chị đã tạo nên những trang văn giàu cảm xúc, đậm chất nữ tính, vừa gìn giữ, bảo lưu tính nhân văn, vừa phá vỡ khuôn mẫu cứng nhắc của chế độ mẫu hệ, vừa cho thấy sự xâm nhập của lối sống mới đối với người miền núi.

Chất thơ trong văn của Niê Thanh Mai cũng là điểm thể hiện bản sắc phái nữ. Nhan đề của tập truyện “Phía nào sương thôi rơi”, hoặc nhan đề các truyện lẻ như “Gió thổi thì buốt sống lưng”, “Ngày mùa đông khép lại”, “Sớm mai thoang thoảng”, “Hoa giấy bao giờ thôi rực rỡ”,… gợi sự nhẹ nhàng, mềm mại nhưng vẫn cảm giác có chút gì đó mong manh, dễ vỡ. Sự phối hợp ăn ý giữa nhan đề với những đoạn văn giàu tính trữ tình, với dấu ba chấm (…) đầy dư ba nằm ở cuối mỗi truyện luôn tạo những hấp dẫn đối với người đọc, đưa người đọc đến với vị thế mới, phát huy vai trò tưởng tượng, dự đoán câu chuyện, số phận của nhân vật: “Mùa đông chưa kết thúc thì xuân đâu đó chớm chạm cửa còn gì/ Rồi thì mầm non sẽ nảy cây. Rồi thì sẽ xanh um. Rồi thì…” [tr.24]; “Hết mùa rau cần rồi mà sao xuống đến ruộng vẫn thấy lá cần chấp chới” [tr.45]; “Trời đang sáng dần từ phía ấy. Thể nào hôm nay trời cũng nắng rát cháy như mọi khi” [tr.157],… Những khoảng lặng tâm hồn, những triết lý về đời sống được chị khai thác qua nhịp điệu, sức sống của thiên nhiên, của vạn vật theo đó cũng mở ra miên man. Kiểu kết thúc thế này không chỉ đưa đến sự lãng mạn, bay bổng cho tác phẩm mà còn khai thác triệt để vai trò, biểu tượng của thiên nhiên, mượn thiên nhiên ẩn dụ, truyền tải nội tâm của con người. Và cũng nhờ đó, những nỗi đau, bi kịch của con người được giải quyết một cách nhẹ nhàng, theo quy luật của cuộc sống, đau để lớn, đau để thấy được giá trị của tình yêu, của hạnh phúc.

Truyện của Niê Thanh Mai thường chỉ chọn một lát cắt ngắn trong cuộc đời của nhân vật. Chị chú ý đến tình huống tạo nên tính cách hoặc bước ngoặt số phận của nhân vật. Cho nên, cốt truyện của “Phía nào sương thôi rơi” thường theo mạch tuyến tính, khá giản đơn. Thời gian quá khứ trong truyện của chị cũng ít hơn thời gian thực tại. Sự đảo chiều thời gian chưa thực sự linh hoạt, chú trọng. Nhưng cái mà chị muốn quyến rũ độc giả là sự chuyển biến trong thế giới nội tâm của nhân vật, đặc biệt là nhật vật nữ. Từ những trắc trở trong tình yêu, hôn nhân, chị chỉ ra những thay đổi đang diễn ra trong tâm lý của người phụ nữ, đó là sự giằng co giữa tập tục lạc hậu và tư tưởng tiên tiến, giữa khoan dung và ghen tuông, ích kỉ và vị tha,… thông qua những sinh hoạt đời thường, thông qua những mối quan hệ với các thành viên trong gia đình. Sự phụ bạc của người đàn ông như là điểm nhấn để chị làm rõ hơn sự cam chịu và lòng thủy chung của người phụ nữ. Họ vẫn dành một sự thứ tha, chờ đợi người đàn ông nhận ra lỗi lầm mà quay về. Đến nước cuối cùng, khi sự hàn gắn không có kết quả, họ mới chấp nhận bỏ cuộc (Sớm mai thoảng hương). Người đàn ông chung thủy lại là điểm nhìn để chị khúc xạ qua cuộc đời của những người đàn bà ngoại tình, chạy theo sự giàu có như H’Sương trong “Như là nắng sớm mai”, H’Di trong “Gió thổi thì buốt sống lưng”. Những đớn đau cho người phụ nữ nhận ra giá trị của cuộc sống gia đình, sự ấm áp, yêu thương của gia đình bao giờ cũng bền vững hơn những rạo rực chóng vánh tức thời, hơn sự sung túc mà họ đánh đổi. H’Di có được cuộc sống giàu có nhưng H’Di không bao giờ lấy lại được tình cảm mẫu tử mà cô đã đánh mất. Không gian truyện của chị vì vậy đa phần hẹp, nhỏ, chủ yếu xoay quanh ngôi nhà, khu vườn. Mà ngôi nhà, khu vườn là nơi ghi dấu bao nhiêu ký ức vui buồn, là điểm tựa khi gặp phải khó khăn, trở ngại, là nơi kéo con người lại gần bên nhau, nên, không gian này hoàn toàn phù hợp với tâm lý của nữ giới. Đó là không gian thực hiện bổn phận và nghĩa vụ làm mẹ, làm vợ.

Trong “Phía nào sương thôi rơi”, chị có nhiều nỗ lực làm mới cốt truyện, tạo thêm sự khác lạ, hấp dẫn khi lý giải số phận người phụ nữ. Có hai truyện, “Trời bảng lảng sương” và “Đêm dài hun hút”, sử dụng yếu tố kỳ ảo, tâm linh đan xen với câu chuyện của tình yêu trai gái và tình cảm gia đình. Việc sử dụng yếu tố ngoài cốt truyện hoặc để các nhân vật lắng lòng trong những trăn trở, tìm lời giải đáp số phận của mình ở cuối mỗi truyện cũng góp phần gia tăng chất triết lý, tạo sức nặng cho “Phía nào sương thôi rơi”. Cách sống, suy nghĩ của giới trẻ về tình yêu và hôn nhân cũng được chị khai thác, dẫu vấn đề đặt ra chưa đủ sức nặng, còn nhạt nhưng người đọc đã thấy được sự chuyển dịch, biến đổi đang âm thầm tác động đến con người và vùng đất Tây Nguyên.

Có thể nói, vấn đề căn tính văn hóa của người Tây Nguyên và ý thức phái tính trong “Phía nào sương thôi rơi” được Niê Thanh Mai phối hợp khéo léo, khá ăn ý, từ bi kịch xác lập tiếng nói bản ngã, từ lối viết nữ thể hiện quan niệm nhân sinh và thẩm mỹ. Sau Y Điêng, Hlinh Niê, Kim Nhất, tiếng nói của Niê Thanh Mai đã và đang khẳng định bản sắc, cá tính và không ngừng nỗ lực trong hành trình nhập cuộc.

H.T.A
(SHSDB41/06-2021)

-------------------
1. Niê Thanh Mai, Phía nào sương thôi rơi, Nxb. Văn học, Hà  Nội, 2021.  




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...