HOÀNG THỤY ANH
Dấu ấn, cá tính của nhà văn thể hiện rất rõ trong cách xử lý cốt truyện, khai thác tâm lý nhân vật, sử dụng ngôn ngữ, xây dựng hình tượng,… Và tất cả những yếu tố này còn ít nhiều bị ảnh hưởng, khu biệt bởi đặc trưng văn hóa nơi nhà văn sinh ra.
Ảnh: internet
Niê Thanh Mai không ngoại lệ. Đọc chị, dễ thấy bản sắc văn hóa Tây Nguyên được liên kết chặt chẽ trong cái nhìn đậm tính nữ. Tập truyện “Phía nào sương thôi rơi”1 đã minh xác tính văn hóa đặc thù riêng khác đồng thời khẳng định những đóng góp của chị đối với văn học dân tộc thiểu số nói riêng và đời sống văn học nước nhà nói chung.
Mỗi dân tộc đều có những nét đặc sắc, độc đáo, đậm dấu ấn vùng, miền. Chất liệu cuộc sống và con người Tây Nguyên như phong tục tập quán, sinh hoạt cộng đồng, nhà ở, ẩm thực, trang phục, cảnh sắc thiên nhiên,... đều có mặt trong truyện của chị: chiếc gùi mây, bếp lửa giữa nhà, cầu thang 7 bậc, rượu cần trong ché, canh cà đắng, lá bép xào, thịt trâu gác bếp, giã gạo dưới gầm sàn, dệt vải, tục bắt chồng,… Vẻ đẹp khỏe khoắn, mặn mòi, tươi trẻ của người Tây Nguyên được chị tô đậm qua những hình ảnh: người con gái với làn da màu nâu nâu, mắt to, buồn mênh mang, bắp tay bắp chân rắn chắc và thơm ngát mùi hoa rừng; đàn ông với khuôn mặt sáng sủa, vồng ngực săn chắc, bắp tay bắp chân cuồn cuộn vạm vỡ,… Những cách nói đậm hơi thở của núi rừng, mộc mạc, chân chất và lối ví von so sánh gần gũi, quen thuộc, vốn là cá tính riêng, tư duy riêng của người Tây Nguyên cũng được chị đưa vào vừa phải, hợp lý trong các truyện: “Giá như cầm được cái sào mà chọc. Vác được cái cây mà đuổi…” [tr.7]; “cái nhìn giận dữ, phừng phừng như lửa” [tr.6], “lay lắt lớn lên như cây dây leo bám vào cổ thụ lớn lên từng ngày” [tr.12], “Cay như thể vừa cắm mặt giã xong cối ớt xanh” [tr.13], “Lòng Dung chùng xuống như sợi chỉ căng trên khung dệt không đều” [tr.116]. Bản sắc đặc thù của văn hóa không chỉ được lồng ghép vào lối sống, nếp ăn nếp nghĩ chân thật, rạch ròi phải trái, hồn nhiên như cỏ cây của con người Tây Nguyên, mà còn thông qua hình ảnh những người phụ nữ. Theo chế độ mẫu hệ, người phụ nữ trong truyện của chị vẫn giữ vai trò chủ động, thể hiện sự ảnh hưởng của mình đến đời sống vật chất lẫn tinh thần của gia đình và của cộng đồng. Sự chủ động trong việc kiếm tìm tình yêu, bắt chồng; quyết đoán mọi việc trong gia đình; và sự chăm chỉ, đảm đang, giàu lòng vị tha, hy sinh của người phụ nữ đã phản ánh rõ nét văn hóa mẫu hệ của các dân tộc bản địa Tây Nguyên. Vì vậy, nhìn vào tính cách, số phận cũng như vị thế, vai trò những người phụ nữ trong truyện của chị sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về đặc trưng văn hóa mẫu hệ khó trộn lẫn của đồng bào Tây Nguyên.
Điểm nhìn trần thuật trong tập truyện của Niê Thanh Mai chủ yếu xoay theo hai dạng. Dạng thức trần thuật ngôi thứ nhất theo điểm nhìn đơn tuyến xuất hiện ở các truyện như “Làng của cha tôi”, “Sớm mai thoang thoảng”, “Hôm qua trời lất phất mưa”, “Cây thằn lằn lá xanh”, “Trời bảng lảng sương”, “Đêm dài hun hút”,… Dạng thức trần thuật ngôi thứ ba theo điểm nhìn bên trong xuất hiện ở các truyện như “Gió thổi thì buốt sống lưng”, “Phía nào sương thôi rơi”, “Hoa giấy bao giờ thôi rực rỡ”, “Thương anh bằng núi bằng sông”,… Điểm chung của hai dạng trần thuật này là người kể chuyện thường đứng ở điểm nhìn nữ giới, do nhân vật nữ trong truyện đảm nhiệm vai kể hoặc trần thuật ngôi thứ ba theo điểm nhìn nữ giới. Niê Thanh Mai tạo ra người kể chuyện, chị là người có vai trò quan trọng trong việc kết nối giữa tác phẩm với bạn đọc, là người bộc lộ quan điểm, tư tưởng của mình trong tác phẩm, nên điểm nhìn của chị hẳn nhiên có sự chi phối đến người kể chuyện. Do thế, tiếng nói, góc nhìn của chị ảnh hưởng không nhỏ đến việc lựa chọn đề tài, nội dung của tập truyện. Đề tài của chị chủ yếu nói về tình yêu, hôn nhân, những bất ổn trong đời sống gia đình. Trong đó, nổi bật nhất là số phận người phụ nữ ở hai vùng miền khác nhau: miền núi và miền xuôi. Họ đều có cuộc đời éo le, truân chuyên, bi kịch. Họ chấp nhận mọi đắng cay, tủi cực, chiến đấu đến cùng với số phận bằng niềm tin bất diệt vào tình yêu, bổn phận và lẽ sống riêng của họ. Din thiệt thòi khi Y Siên không thèm để ý đến mình, chỉ thích cô gái ở buôn Lum, nhưng cô vẫn cam chịu mọi nỗi buồn, chờ đợi, tìm mọi cách để Y Siên hiểu tiếng lòng của mình (Thương anh bằng núi bằng sông). Nếu không đi cùng với người mình yêu, mình chọn, họ chọn giải pháp ở giá, xin làm con nuôi trong gia đình người từ chối mình như người đàn bà trong “Làng của cha tôi”. Nếu người đàn ông phụ bạc, họ vẫn là người con dâu của gia đình như H’Dương trong “Gió thổi thì buốt sống lưng”. Không phải họ bế tắc, không tìm ra lối thoát, mà bởi ý thức về bổn phận và trách nhiệm trong họ quá lớn. Sự cam chịu, bao dung, chờ đợi, hy sinh của họ cũng là con đường, là giải pháp để họ đấu tranh, đòi quyền được yêu thương với người mà họ muốn đi cùng đến suốt cuộc đời. Trong truyện của chị, vẫn có những người phụ nữ nổi loạn, bứt phá khỏi rào cản định kiến và của chính bản thân họ. Phen về làm dâu chứ không bắt chồng, chồng chết, chị cũng đến với người khác, dù rằng mọi cố gắng của chị chưa vượt qua được rào cản của các hủ tục, nhưng ít ra, đó cũng là khoảnh khắc để chị được là chính mình, được quyền bộc lộ nỗi niềm yêu thương (Mật đắng). Kiểu người phụ nữ ngoại tình như nàng trong “Ngày mùa đông khép lại”, người phụ nữ không chịu nổi cực khổ đã dứt khoát từ bỏ tổ ấm gia đình chạy theo tiếng gọi vật chất như mí H’Di trong “Gió thổi thì buốt sống lưng”,... xét ở góc độ nhất định, phần nào đó cho thấy sự trỗi dậy ý thức về giới. Ý thức về giới đã cho nàng thấy được giá trị quan trọng của đời sống gia đình. Ý thức về giới cho H’Di hiểu được cái giá phải trả khi từ bỏ gia đình. Tính lưỡng cực mà Niê Thanh Mai đặt ra, làm tròn bổn phận và giải phóng cực hạn, cho thấy quan niệm về tình yêu và hôn nhân của các nhân vật nữ rất mới mẻ và tiến bộ, họ không chấp nhận, yên phận trước những luật lệ hà khắc, cũ kỹ, họ muốn thực hiện quyền được là chính mình, được sống đúng với cái tôi của mình. Đó là mí, một người phụ nữ hết lòng thương yêu con dâu, bất chấp những thêu dệt lạc hậu của bà con trong “Mật đắng”. Đó là mí, đã cởi bỏ những định kiến để đứa con của mình được sống với tình yêu và hạnh phúc mà bấy lâu nay nó luôn mong mỏi trong “Đừng uống rượu trước hiên nhà”. Đó là mí, người rất mực yêu thương con dù mình không đứt ruột đẻ ra trong truyện “Phía nào sương thôi rơi”. Đặt người phụ nữ trong mối quan hệ gia đình, soi chiếu họ bằng cái nhìn cùng giới, chị đã tạo nên những trang văn giàu cảm xúc, đậm chất nữ tính, vừa gìn giữ, bảo lưu tính nhân văn, vừa phá vỡ khuôn mẫu cứng nhắc của chế độ mẫu hệ, vừa cho thấy sự xâm nhập của lối sống mới đối với người miền núi.
Chất thơ trong văn của Niê Thanh Mai cũng là điểm thể hiện bản sắc phái nữ. Nhan đề của tập truyện “Phía nào sương thôi rơi”, hoặc nhan đề các truyện lẻ như “Gió thổi thì buốt sống lưng”, “Ngày mùa đông khép lại”, “Sớm mai thoang thoảng”, “Hoa giấy bao giờ thôi rực rỡ”,… gợi sự nhẹ nhàng, mềm mại nhưng vẫn cảm giác có chút gì đó mong manh, dễ vỡ. Sự phối hợp ăn ý giữa nhan đề với những đoạn văn giàu tính trữ tình, với dấu ba chấm (…) đầy dư ba nằm ở cuối mỗi truyện luôn tạo những hấp dẫn đối với người đọc, đưa người đọc đến với vị thế mới, phát huy vai trò tưởng tượng, dự đoán câu chuyện, số phận của nhân vật: “Mùa đông chưa kết thúc thì xuân đâu đó chớm chạm cửa còn gì/ Rồi thì mầm non sẽ nảy cây. Rồi thì sẽ xanh um. Rồi thì…” [tr.24]; “Hết mùa rau cần rồi mà sao xuống đến ruộng vẫn thấy lá cần chấp chới” [tr.45]; “Trời đang sáng dần từ phía ấy. Thể nào hôm nay trời cũng nắng rát cháy như mọi khi” [tr.157],… Những khoảng lặng tâm hồn, những triết lý về đời sống được chị khai thác qua nhịp điệu, sức sống của thiên nhiên, của vạn vật theo đó cũng mở ra miên man. Kiểu kết thúc thế này không chỉ đưa đến sự lãng mạn, bay bổng cho tác phẩm mà còn khai thác triệt để vai trò, biểu tượng của thiên nhiên, mượn thiên nhiên ẩn dụ, truyền tải nội tâm của con người. Và cũng nhờ đó, những nỗi đau, bi kịch của con người được giải quyết một cách nhẹ nhàng, theo quy luật của cuộc sống, đau để lớn, đau để thấy được giá trị của tình yêu, của hạnh phúc.
Truyện của Niê Thanh Mai thường chỉ chọn một lát cắt ngắn trong cuộc đời của nhân vật. Chị chú ý đến tình huống tạo nên tính cách hoặc bước ngoặt số phận của nhân vật. Cho nên, cốt truyện của “Phía nào sương thôi rơi” thường theo mạch tuyến tính, khá giản đơn. Thời gian quá khứ trong truyện của chị cũng ít hơn thời gian thực tại. Sự đảo chiều thời gian chưa thực sự linh hoạt, chú trọng. Nhưng cái mà chị muốn quyến rũ độc giả là sự chuyển biến trong thế giới nội tâm của nhân vật, đặc biệt là nhật vật nữ. Từ những trắc trở trong tình yêu, hôn nhân, chị chỉ ra những thay đổi đang diễn ra trong tâm lý của người phụ nữ, đó là sự giằng co giữa tập tục lạc hậu và tư tưởng tiên tiến, giữa khoan dung và ghen tuông, ích kỉ và vị tha,… thông qua những sinh hoạt đời thường, thông qua những mối quan hệ với các thành viên trong gia đình. Sự phụ bạc của người đàn ông như là điểm nhấn để chị làm rõ hơn sự cam chịu và lòng thủy chung của người phụ nữ. Họ vẫn dành một sự thứ tha, chờ đợi người đàn ông nhận ra lỗi lầm mà quay về. Đến nước cuối cùng, khi sự hàn gắn không có kết quả, họ mới chấp nhận bỏ cuộc (Sớm mai thoảng hương). Người đàn ông chung thủy lại là điểm nhìn để chị khúc xạ qua cuộc đời của những người đàn bà ngoại tình, chạy theo sự giàu có như H’Sương trong “Như là nắng sớm mai”, H’Di trong “Gió thổi thì buốt sống lưng”. Những đớn đau cho người phụ nữ nhận ra giá trị của cuộc sống gia đình, sự ấm áp, yêu thương của gia đình bao giờ cũng bền vững hơn những rạo rực chóng vánh tức thời, hơn sự sung túc mà họ đánh đổi. H’Di có được cuộc sống giàu có nhưng H’Di không bao giờ lấy lại được tình cảm mẫu tử mà cô đã đánh mất. Không gian truyện của chị vì vậy đa phần hẹp, nhỏ, chủ yếu xoay quanh ngôi nhà, khu vườn. Mà ngôi nhà, khu vườn là nơi ghi dấu bao nhiêu ký ức vui buồn, là điểm tựa khi gặp phải khó khăn, trở ngại, là nơi kéo con người lại gần bên nhau, nên, không gian này hoàn toàn phù hợp với tâm lý của nữ giới. Đó là không gian thực hiện bổn phận và nghĩa vụ làm mẹ, làm vợ.
Trong “Phía nào sương thôi rơi”, chị có nhiều nỗ lực làm mới cốt truyện, tạo thêm sự khác lạ, hấp dẫn khi lý giải số phận người phụ nữ. Có hai truyện, “Trời bảng lảng sương” và “Đêm dài hun hút”, sử dụng yếu tố kỳ ảo, tâm linh đan xen với câu chuyện của tình yêu trai gái và tình cảm gia đình. Việc sử dụng yếu tố ngoài cốt truyện hoặc để các nhân vật lắng lòng trong những trăn trở, tìm lời giải đáp số phận của mình ở cuối mỗi truyện cũng góp phần gia tăng chất triết lý, tạo sức nặng cho “Phía nào sương thôi rơi”. Cách sống, suy nghĩ của giới trẻ về tình yêu và hôn nhân cũng được chị khai thác, dẫu vấn đề đặt ra chưa đủ sức nặng, còn nhạt nhưng người đọc đã thấy được sự chuyển dịch, biến đổi đang âm thầm tác động đến con người và vùng đất Tây Nguyên.
Có thể nói, vấn đề căn tính văn hóa của người Tây Nguyên và ý thức phái tính trong “Phía nào sương thôi rơi” được Niê Thanh Mai phối hợp khéo léo, khá ăn ý, từ bi kịch xác lập tiếng nói bản ngã, từ lối viết nữ thể hiện quan niệm nhân sinh và thẩm mỹ. Sau Y Điêng, Hlinh Niê, Kim Nhất, tiếng nói của Niê Thanh Mai đã và đang khẳng định bản sắc, cá tính và không ngừng nỗ lực trong hành trình nhập cuộc.
H.T.A
(SHSDB41/06-2021)
-------------------
1. Niê Thanh Mai, Phía nào sương thôi rơi, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2021.
LGT: Cuộc thi viết cảm nhận tác phẩm văn học Hàn Quốc (lần thứ IX - năm 2014) do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Viện Dịch thuật văn học Hàn Quốc tổ chức. Cô sinh viên năm thứ tư Hồ Tiểu Ngọc được khoa Ngữ văn, trường Đại học khoa học, Đại học Huế cử tham gia, đã vinh dự nhận giải Nhì qua bài phê bình tập truyện ngắn Điều gì xảy ra, ai biết… của nhà văn Hàn Quốc Kim Young Ha, dịch giả Hiền Nguyễn.
BBT Sông Hương vui mừng giới thiệu đến bạn đọc bài viết đạt giải cao này.
(Cuộc trưng cầu ý kiến các giảng viên dạy lý luận và lịch sử văn học ở các trường ĐHTH ở Liên Xô)
Phan Thắng thực hiện
ĐỖ LAI THÚY
Ngồi buồn lại trách ông xanh
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
(Nguyễn Công Trứ)
NGUYỄN KHẮC THẠCH
Không biết ngẫu nhiên hay cố ý mà tập thơ sẽ in riêng của nhà thơ Trần Lan Vinh lại mang tên với chữ đầu là Lục (sáu) – Lục bát đồng dao? Thôi thì cứ nói theo khẩu ngữ nhà Phật là tùy duyên nhưng điều quan trọng lại không phải ở phần cứng đó mà ở phần mềm hoặc không ở chỗ thể mà ở chỗ dụng của danh xưng.
LTS: Thời gian qua, thơ Tân hình thức Việt đã bắt đầu được nhiều bạn đọc, bạn thơ quan tâm. Tuy nhiên, nhiều người vẫn băn khoăn về việc làm sao để đọc một bài thơ Tân hình thức? Làm sao để giữ nhịp điệu của thơ?... Bài viết dưới đây của Biển Bắc, nhằm giới thiệu cách đọc-diễn một bài thơ Tân hình thức Việt. Vì muốn làm sáng ý nguyện ngôn ngữ đời thường nên bài viết sử dụng ngôn ngữ rất THT Việt. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
ĐẶNG TIẾN
Xuân đã đem mong nhớ trở về
Lòng cô gái ở bến sông kia
Cô hồi tưởng lại ba xuân trước
Trên bến cùng ai đã nặng thề…
(Nguyễn Bính)
DÂN TRÍ
Không học chữ Nho, nghe qua hai câu thơ Hán Việt vừa dẫn thì cũng có thể hiểu được nghĩa lý một cách mang mang hồn sử thi.
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Khi mới học cấp 2, tôi đã thấy trong tủ sách nhà tôi có hai cuốn Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan và Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân do một người dượng mua về từ Sài Gòn.
THÁI KIM LAN
Bài viết này chỉ là một phác thảo gợi ý về sự nghiệp và ảnh hưởng của hai nhà nữ trí thức miền Nam trong những thập niên 60, 70. Phùng Thăng tạ thế cuối thập niên 70. Phùng Khánh đã là Ni sư giữa thập niên 60 và trở nên một Ni sư Trưởng lỗi lạc trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam trước và sau 1975, liễu sinh 2003.
YẾN THANH
“Vĩnh biệt mày, cái thằng không biết tưởng tượng. Mày tự mà đốt đuốc cho cuộc hành trình thăm thẳm của mày đi”
ĐỖ LAI THÚY
Trong một vài năm gần đây, nhiều nhà phê bình và nghiên cứu văn học đã có những cố gắng đáng kể để thoát ra khỏi tình trạng tiếp cận văn học một cách xã hội học có phần dung tục, hướng đến cách tiếp cận mới xuất phát từ đặc trưng của chính bản thân văn học. Một trong nhiều đường hướng nghiên cứu có triển vọng đó là phong cách học.
Cần phải nói ngay, Tưởng tượng & Dấu vết là cuốn tiểu thuyết khó đọc. Nó khó đọc vì hai lẽ: thứ nhất, nền tảng logic văn bản không nằm trong phương pháp tạo dựng hay trong tri thức thực hành của tác giả, mà nó nằm sâu trong yếu tính[2] thời gian.
ĐINH VĂN TUẤN
Thi hào Nguyễn Du khi sáng tác “Truyện Kiều” đã đặt tên cho tác phẩm nổi tiếng này là gì? Cho đến nay, giới nghiên cứu Kiều vẫn còn phân vân, chưa dứt khoát hẳn một nhan đề nào là khởi đầu do cụ Nguyễn Du đặt.
KHẾ IÊM
Tặng nhà thơ Biển Bắc và Hồ Đăng Thanh Ngọc
Nhà thơ và nhà nghiên cứu Mỹ Timothy Steele, trong bài viết “Phép làm thơ cho những nhà thơ thế kỷ 21”, nhấn mạnh, cách làm thơ trong thế kỷ tới sẽ là tuôn nhịp điệu ngôn ngữ nói vào thể luật, để hình thành nhịp điệu thơ.
HOÀNG DŨNG, BỬU NAM
(Phỏng vấn nhà sử học Nguyễn Hồng Phong, nhà văn Huy Phương và nhà phê bình văn học Phương Lựu)
HỒ TIỂU NGỌC
Thế kỷ XXI là thế kỷ của internet và truyền thông, nơi mọi chân lý và định luật đều gói gọn ở trong hai con số 0 và 1 của ngôn ngữ lập trình mạng.
VŨ THỊ THƯỜNG
Gần đây, nhân công việc tìm nhặt tư liệu xung quanh vụ án Lệ Chi viên để viết một cái gì đó bằng văn xuôi, tôi có đọc một số sách viết về Nguyễn Trãi. Trong số sách tôi đã đọc ấy, có hai cuốn: Văn chương Nguyễn Trãi và Chủ nghĩa yêu nước trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn của tác giả Bùi Văn Nguyên.
VŨ TRỌNG QUANG
I. HÀNH TRÌNH TẤT YẾU
Bước chân bắt đầu từ khởi điểm Octavio Paz “Giữa im lặng và tiếng nói, đó là thơ”. Vậy thì im lặng hay lên tiếng, có người nói thơ là tiếng nói, và có người cho vô ngôn là một giá trị.