Những vọng âm từ biển

09:26 09/07/2021

ĐỖ THU THỦY  

1.
Trường ca Ngang qua bình minh là ấn phẩm thứ ba của nhà thơ Lữ Mai, sau hai tập tản văn và ký sự: Nơi đầu sóng, Mắt trùng khơi viết về đề tài biển đảo.

Nhà thơ Lữ Mai và tác phẩm của chị

Đây là kết quả từ chuyến đi Trường Sa năm 2019 của chị và các đồng nghiệp, một hải trình với đầy ắp những ấn tượng và xúc cảm mãnh liệt như chính tác giả từng chia sẻ: “Câu chuyện về biển đảo mênh mông quá, tinh thần hy sinh của biết bao người lính cùng thân nhân của họ và vô số con người đau đáu lặng thầm bảo vệ cột mốc chủ quyền Tổ quốc không giấy mực nào tả xiết”. Tâm thế của người “đứng trước biển” với bao mới lạ, kỳ thú, ngỡ ngàng xen lẫn sự cảm phục, biết ơn những chiến sĩ hải quân “nơi đầu sóng” ngày đêm canh giữ biển trời Tổ quốc đã tạo nên điểm nhìn nghệ thuật mới, có sự mở rộng của phạm vi hiện thực, chiều sâu của cảm xúc, suy tưởng và sự linh hoạt trong hình thức biểu đạt ở các tác phẩm về biển đảo của Lữ Mai so với một số sáng tác trước đây của chị. Xét trên phương diện này, có thể xem Ngang qua bình minh là một dấu mốc cho thấy sự trưởng thành trong trải nghiệm đời sống và tư duy nghệ thuật, một trưởng thành đầy ý thức, đáng trân trọng ở những người viết trẻ như Lữ Mai.

Sinh năm 1988, Lữ Mai thuộc thế hệ những người viết văn trẻ được đào tạo một cách bài bản, có niềm đam mê, kiên trì theo đuổi con đường viết văn chuyên nghiệp và bước đầu đã gặt hái những thành công nhất định với 3 tập thơ: Giấc (2010), Mở mắt rồi mơ (2015), Thời cách ngăn trống rỗng (2019); 1 tập truyện ngắn: Linh hồ (2019), 4 tập tản văn và ký sự: Hà Nội không vội được đâu (2014), Những mùa hoa còn lại, Nơi đầu sóng, Mắt trùng khơi (2019) trước khi tiếp tục có thêm trường ca Ngang qua bình minh. Dẫu vậy thì với người viết trẻ, trường ca vẫn luôn là một hấp dẫn đầy thách đố bởi sự “vạm vỡ” của thể loại, xét ở cả hai đặc tính: khả năng biểu đạt những cảm xúc lớn, tư tưởng lớn về cộng đồng, dân tộc, đời sống nói chung và khả năng thể nghiệm phong phú các hình thức nghệ thuật: thể thơ, ngôn ngữ, thi tứ, hình ảnh… Lựa chọn viết trường ca sau khi đã có ít nhiều thành công ở thơ, truyện ngắn, tản văn, ký sự, vì thế, dường như là một “liều lĩnh” dấn thân của Lữ Mai. Thêm nữa, nhìn ở “lãnh địa” trường ca về biển đảo, Lữ Mai cũng không phải trường hợp đầu tiên và duy nhất. Trước chị, từng có những trường ca của các cây bút dày dặn kinh nghiệm trên thi đàn thơ Việt: Những người trên cửa biển (Văn Cao); Trường ca biển (Hữu Thỉnh), Hạ thủy những giấc mơ (Nguyễn Hữu Quý), Biển mặn (Nguyễn Trọng Tạo), Lòng hải lý (Đỗ Quyên), Tổ quốc - Đường chân trời (Nguyễn Trọng Văn); Người sau chân sóng (Lê Thị Mây)… và gần đây là Sóng trầm biển dựng (Đoàn Văn Mật). Đó là chưa kể hàng loạt những bài thơ từng gây sóng thi đàn ngay khi xuất hiện ở những thời điểm “nước sôi lửa bỏng”, chủ quyền biển đảo bị đe dọa: Trường Sa hành (Tô Thùy Yên), Tổ quốc nhìn từ biển (Nguyễn Việt Chiến), Mộ gió (Trịnh Công Lộc), Tổ quốc ba nghìn cây số biển (Nguyễn Ngọc Phú)… Là một người viết chuyên nghiệp, Lữ Mai hẳn nhiên ý thức về những cái bóng trường ca đã phủ xuống thơ Việt cũng như hiểu rõ cả áp lực mà một người viết trẻ như chị phải đối diện trước đòi hỏi thể loại cần nhiều trải nghiệm sống, trải nghiệm viết. Vì thế trong trường ca này, thấy rõ những nỗ lực, gắng gỏi để tạo nên cái riêng khác của tác giả, dựa trên chính việc khai thác tối đa ưu thế của thể loại và “vốn liếng” thực tế quí giá của những ngày ra với biển, với người lính cũng như trải nghiệm sống và tạng riêng của chị.  

2.
Ở góc nhìn khái quát mang tính chỉnh thể, có thể thấy trong Ngang qua bình minh, Lữ Mai đã lựa chọn bố cục chương đoạn thường thấy của trường ca với 8 chương theo thứ tự: Khởi tại Điêu Lương, Linh thoại, Ảo giác, Vẽ lại bình minh, Giấc mơ trổ vào thân sóng, Chuỗi ngày sao biển, Miền trong suốt, Trở về. Mỗi chương tựa như một câu chuyện nhỏ lồng trong câu chuyện lớn, được nối kết qua/ bằng hình thức những “đối thoại biển” với chủ âm là “linh thoại” giữa người lính và đồng đội, người thân. Những người lính đến từ mọi miền đất nước nhưng có chung một sứ mệnh thiêng liêng: bảo vệ bình yên biển đảo Tổ quốc. “Chiến chinh ở tận đáy sâu”! Rất nhiều người trong số họ, thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, đã mãi mãi nằm lại giữa lòng biển cả, lỡ hẹn chuyến tàu về… Ngang qua bình minh là khúc ca bi tráng về những người lính kiên trung, bất khuất ấy ở cả chiều kích rộng lớn, hào sảng: tình yêu Tổ quốc, biển cả, tinh thần quyết tử bảo vệ chủ quyền đất nước lẫn những xúc cảm riêng tư, sâu lắng cắt cứa thịt da với mẹ, em và người thân yêu nơi quê nhà… Nhờ đặc trưng bao quát và “ôm chứa” thể loại, bố cục này tạo cơ hội cho tác giả triển khai mạch tư tưởng, cảm xúc và hình tượng trữ tình trong sự phong phú, linh hoạt, uyển chuyển, đan xen giữa chất sử thi và thế sự, hùng ca và bi ca, giữa câu chuyện “thời sự” có tính thời điểm liên quan tới những tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa thời gian gần đây và suy tư liên tưởng rộng dài về dân tộc, nhân dân trong dòng chảy thăng trầm của lịch sử, về những gian khó khổ đau, hy sinh mất mát vừa lặng thầm vừa kiêu hãnh của những người lính và nhân dân nói chung trong sứ mệnh gìn giữ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc: “Nơi biển cả đang dềnh ngơ ngác/ có gì rất sắc và sâu/ rất ngọt và đau/ phiêu bạt giữa trùng khơi muối mặn”; “Mỗi chúng tôi hóa một lá cờ/ bay vụt lên giữa biển/ dẫu cắn răng đau, dẫu lặng im tan nát/ vẫn mãi đứng đây và hát/ lời nhân dân non nước của mình”; “Mẹ ơi! Nếu mẹ ra tới biển/ có những ngày biển bỗng sáng lên/ ánh sáng ấy từ nghìn năm mở cõi/ từ những ngọn đèn vời vợi trước gian lao/ từ những kiếp người chưa bao giờ yên ngủ nổi/ từ những cuộc đời như mẹ mòn trông”… Trên nền mạch tự sự được tạo bởi tính kết nối của các chi tiết, sự kiện về hành trình sống - chiến đấu - hy sinh của những người lính đất Điêu Lương, người lính trên mọi miền đất nước nói chung, những ý tưởng, cảm xúc được triển khai và tự do tuôn chảy, nhiều khi lấn át mạch tự sự. Đây là một trong những đặc điểm thuộc về “hiện đại tính” của trường ca sau 1975 so với các giai đoạn trước, từng được thể hiện trong một số trường ca về biển đảo: Trường ca biển (Hữu Thỉnh), Hạ thủy những giấc mơ (Nguyễn Hữu Quý), Tổ quốc - Đường chân trời (Nguyễn Trọng Văn),… Điều này khiến cho việc phản ánh và biểu đạt nội dung trữ tình trong các trường ca giai đoạn này được mở rộng chiều kích trong sự kết hợp linh hoạt của ngôi kể, giọng điệu, ngôn ngữ, thủ pháp… giúp phát huy tối đa năng lực sáng tạo và sở trường của mỗi người viết. Tuy nhiên, sự mở rộng những chiều kích này trong trường ca cũng là thử thách không nhỏ với những người viết trẻ như Lữ Mai. Bởi lẽ ở dạng đề tài mang “hơi hướng” sử thi, có khả năng ôm chứa cả những vấn đề lớn của lịch sử dân tộc lẫn thân phận con người như đề tài biển đảo, nếu không đủ độ đằm chín của suy tư, cảm xúc, sự chắc chắn vững vàng về bút lực thì dễ rơi vào tình trạng “hô khẩu hiệu” hoặc các diễn đạt đã trở nên sáo mòn, công thức, đi ngược với nguyên tắc có tính sinh tử của thơ ca. Lữ Mai hẳn cũng ý thức một cách nghiêm túc, đầy cẩn trọng về điều này. Vì thế trong việc triển khai cấu trúc bên trong của trường ca, đã thấy những dụng công đầy chủ ý với nỗ lực đem tới cách thức biểu đạt có nhiều riêng khác ở đề tài dường như đã quen thuộc. Điều này thể hiện qua cách tác giả xử lý, kết hợp một cách khéo léo chất liệu đời sống hiện thực gắn với không gian, con người, câu chuyện, sự kiện về biển đảo và chất liệu văn hóa, tín ngưỡng dân gian, từ đó mở rộng phạm vi và trường liên tưởng về hiện thực, sự cộng hưởng của những cảm xúc suy tư, sự linh hoạt trong các thể nghiệm ngôn từ, thi ảnh, giọng điệu… giúp việc thể hiện thông điệp nghệ thuật trở nên rộng mở, sâu sắc hơn.

3.
Nhìn từ liên kết bề sâu, cấu trúc của Ngang qua bình minh được tạo dựng bởi sự gắn kết giữa cái thực: rừng núi, biển cả, trận mạc, người lính…, các tình tiết, câu chuyện về con người, sự việc diễn ra trong thời gian, không gian cụ thể, xác định với cái huyền bí, hư ảo của những linh thoại, ảo giác, giấc mơ… gắn với không gian tâm tưởng, được tạo dựng từ huyền tích về những “vùng đất thiêng”, từ ý niệm và niềm tin về sự tồn tại của thế giới tâm linh bên ngoài thế giới thực tại đầy hữu hạn của con người. Cái thiêng như một biểu đạt nghệ thuật đầy dụng ý ngầm diễn giải, cắt nghĩa về những gì diễn ra trong thực tại, một thực tại vừa kỳ vĩ, lớn lao, rộng dài liên quan tới vận mệnh dân tộc, vừa riêng tư cá nhân liên quan tới số phận mỗi con người. Sự trưng dụng các lớp ý nghĩa của trầm tích văn hóa trong trường ca này, do thế, thường nương theo mạch cảm xúc, góp phần thể hiện thông điệp nghệ thuật của tác giả. Câu chuyện về “bùa ngải”, “bùa yêu” nơi đồng rừng Điêu Lương là một ví dụ. Từ lời truyền tụng đầy bí ẩn, ma mị, đôi lúc nhuốm vẻ rùng rợn về một thứ phép thuật mang “yêu lực” khiến người ta vừa tò mò vừa sợ hãi, trong Ngang qua bình minh, chỉ dấu văn hóa đậm màu sắc tín ngưỡng vùng miền này được tác giả khai thác ở ý nghĩa khởi nguyên đầy tích cực và nhân bản: niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi, mong ước được gắn bó “trọn đời trọn kiếp” bên người mình yêu thương. Vì thế những người đàn bà Điêu Lương khi sở hữu (hay cố gắng để sở hữu) bùa ngải, bùa yêu là đã “đặt cược” số mệnh mình vào đó với niềm tin vào sức mạnh đầy linh nghiệm có thể “dẫn dụ”, “chỉ lối đưa đường” linh hồn những người chồng, người con, người đàn ông của mình từ thăm thẳm trùng khơi trở về đất mẹ: “Bếp lạnh. Nhà lạnh. Chiếu chăn lạnh. Chiếc áo bạc màu run rẩy tái xanh. Mây đổ xuống Điêu Lương như biển trắng. Những linh hồn sóng sánh ngả vào nhau/ Người càng đớn đau, ngải càng linh nghiệm. Tình yêu từ tiền kiếp sẽ sinh sôi”; “Cùng khi đó những người đàn bà trở dậy nhóm bếp. Rót rượu hạ thổ từ chum sành, gọi ngải. Bùa yêu ơi, xin mở lại con đường”… Hình ảnh những người đàn bà Điêu Lương “ngậm ngùi nuôi những mùa ngải đắng/ gửi kẻ tha hương hình bóng một vầng trăng” trở thành một day dứt, ám ảnh, gợi ý niệm về sự cô đơn, mất mát, bi kịch: “Vùng Điêu Lương nổi tiếng bùa yêu. Nhưng chỉ để trao cho những vùng đất khác. Còn xứ này, đàn bà tóc xanh hay tóc bạc, đều cô đơn”. Từ trầm tích văn hóa, câu chuyện bùa ngải, bùa yêu trở thành một tín hiệu thẩm mĩ mang thông điệp về thân phận con người, thân phận phụ nữ trong dòng chảy thăng trầm của lịch sử: “rồi chợt ta thấy mẹ/ người suốt đời trồng ngải gọi bùa yêu/ vườn ngải già thành nơi trông cậy/ sau cuối chỉ còn đắng đót giọt đau”; “Những kiếp đàn bà nuôi ngải đắng gọi bùa/ trò thiêng cũ phiêu linh theo đời lính/ hạnh phúc hình hài hoa bão táp/ năm cánh trắng mong manh một phía xếp về”… Trong thơ Lữ Mai từng xuất hiện những bài thơ, câu thơ đầy ám ảnh về “phận đàn bà” với nỗi đau hậu chiến, “nỗi đau nhang khói”: “Người đàn bà tháng bảy/ theo hồi chuông mang ký ức quay về/ âm dương tìm nhau khói nhang cách biệt/ trong cơn khóc trẻ thơ/ hương huệ trắng vẫn còn thảng thốt” (Những hồi chuông cỏ dại). Dường như trái tim phụ nữ với sự yếu mềm cố hữu khiến những vần thơ của chị ở trường ca này, dù trong hào sảng ngân vang vẫn có những quãng lắng sâu da diết, buốt nhói một niềm xót đau, thương cảm: “mẹ chôn chiếc ba lô đắp thành mộ gió/ chôn tuổi xuân mình/ chôn mái tóc xanh”; “tóc mẹ buốt sương khuya/ lạnh từng mũi kim suốt đời vá víu/ chạm mặt vải thêu nhóng nhánh trăng vàng/ hoang mang kéo vào ngày rạng”; “nước mắt em chôn vội rặng tóc tiên/ chẳng tiễn kẻ đi chỉ đăm đăm theo đường mòn lũ kiến/ tưởng tượng ta bé mọn đủ để em nhìn”… Đó là những quãng lặng quý giá, chạm tới giá trị cốt tủy và vĩnh hằng của thi ca.

Huyền tích đồng rừng về bùa ngải, bùa yêu bên cạnh linh thoại, ảo giác, giấc mơ trong cõi tâm linh vô thức, nơi trùng khơi thăm thẳm “tiếng chuyện trò lẫn lời sóng gió”, “người đã khuất thức cùng người sống” đã tạo nên một không gian nghệ thuật đậm chất huyền hoặc, ở đó diễn ra câu chuyện vừa thiêng liêng hào sảng, vừa “bình dị từ tâm” về những người lính và cuộc chiến giữ gìn, bảo vệ, khẳng định chủ quyền đất nước. Ở đó, “mỗi số phận chứa một phần lịch sử” giúp ta thức nhận rõ hơn ý nghĩa của những nỗi đau, sự hy sinh, dâng hiến, để thêm gắn bó, tha thiết hơn với con người, với cuộc đời này.

Chia sẻ về sứ mệnh của thơ ca, nhà thơ Nguyễn Hữu Quý cho rằng: “Dù chiến tranh hay hòa bình, thơ cũng phải có trách nhiệm với Tổ quốc và nhân dân, đó vừa là nghĩa vụ, vừa là tình cảm của người cầm bút. Nhưng để chuyển tải được tư tưởng, nội dung lớn, thơ cần có chất lượng nghệ thuật cao”. Trong một tương quan và đòi hỏi như vậy, việc lựa chọn những thể loại “nặng ký” như trường ca để biểu đạt tư tưởng, cảm xúc lớn về dân tộc, nhân dân ở các tác giả trẻ như Lữ Mai, tuy có chút “liều lĩnh” song thật đáng quý, đáng trân trọng. Chúng ta mong chờ và tin tưởng sự “liều lĩnh” ấy, cùng nội lực và khát vọng dấn thân sẽ tạo nên nguồn năng lượng và sinh khí mới cho những bứt phá sáng tạo trong tương lai của chị.

Đ.T.T  
(SHSDB41/06-2021)




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!