Những ngôi nhà Tạ trong kiến trúc cung đình Nguyễn

08:49 20/03/2015

Trong kiến trúc cung đình Nguyễn tại Huế, hình thức nhà tạ có mặt ở khắp nơi: Hoàng cung, Hành cung, Biệt cung và ở cả các lăng tẩm đế vương.

Hai ngôi nhà tạ ven bờ hồ Lưu Khiêm

Trong lịch sử kiến trúc truyền thống Việt, hình thức kiến trúc nhà tạ có lẽ xuất hiện từ khá sớm và tương tự như ở Trung Hoa, nó cũng sớm được cung đình hoá rồi gần như trở thành một hình thức kiến trúc độc quyền của vua chúa. Theo các nguồn sử liệu, dưới tất cả các triều đại vua chúa Việt Nam, hình thức nhà tạ xuất hiện khá phổ biến tại những chốn phục vụ nhu cầu ăn chơi của tầng lớp thống trị, như hành cung, ly cung, biệt cung...Chúng là những kiến trúc tương đối đơn giản, được dựng bên bờ mặt nước như hồ, ao, sông, suối (nguyên chữ tạ có nghĩa là ngôi nhà dựng trên mặt nước-vì thế mà còn gọi là thuỷ tạ) với nhiều hình thức khác nhau. Nhưng phải đến thời Nguyễn, hình thức kiến trúc nhà tạ mới trở nên thật sự phong phú về số lượng và hình thức.

Trong kiến trúc cung đình Nguyễn tại Huế, hình thức nhà tạ có mặt ở khắp nơi: Hoàng cung, Hành cung, Biệt cung và ở cả các lăng tẩm đế vương. Theo thống kê của chúng tôi, vào thời hoàng kim, riêng trong khu vực Kinh thành đã có hàng chục ngôi nhà tạ của vua Nguyễn; các Hành cung, Biệt cung thì hầu như cung nào cũng có. Căn cứ vào sự mô tả của các nguồn sử liệu, nhất là các bức tranh mộc bản, tranh gương của triều Nguyễn, nhà tạ thời Nguyễn rất phong phú về quy mô và hình thức kết cấu. Đáng tiếc là trải qua thời gian cùng sự tàn phá của chiến tranh, đến nay, trong quần thể kiến trúc cung đình chỉ còn vẻn vẹn lại 4 ngôi nhà tạ. Tuy nhiên, thật may mắn vì chúng cũng là bốn ngôi nhà khá tiêu biểu về hình thức kết cấu và vai trò trong tổ hợp kiến trúc. Đó là Trường Du Tạ ở cung Diên Thọ(Hoàng Thành); Nghênh Lương Tạ(hay Nghênh Lương Đình) ở trước mặt Kinh Thành; Dũ Khiêm Tạ và Xung Khiêm Tạ ở lăng Tự Đức. Dưới đây chúng tôi xin được giới thiệu về bốn ngôi nhà khá đặc biệt này.

1.Trường Du Tạ

Trường Du Tạ

Đây là ngôi nhà tạ nằm trong tổ hợp kiến trúc cung Diên Thọ, khu vực dành riêng cho các bà Thái hậu triều Nguyễn, rộng gần 1.8 ha, nằm ở phía tây trong Hoàng Thành. Trường Du Tạ được dựng năm 1849 để chuẩn bị cho lễ Ngũ tuần đại khánh tiết của bà Thái hậu Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức. Tạ dựng trên một chiếc hồ hình vuông xinh xắn, rộng 530 m2, ở phía đông toà điện chính, mặt hướng về phía nam. Kết cấu tạ kiểu nhà Rường truyền thống Huế với thức vuông (phương đình), một gian bốn chái, 16 cột trụ, mái lợp ngói ống tráng men xanh. Cả ba mặt đông, tây và nam của Trường Du Tạ đều có hành lang bao bọc. Về sau hành lang này bị dỡ bỏ, phần phía nam thì cải tạo thành một ngôi nhà vỏ cua với tên gọi Lương Phong Đình.

Tuy kết cấu theo kiểu nhà Rường với hệ thống cột khá dày đặc nhưng không gian kiến trúc của nhà tạ này vẫn rất thoáng bởi hệ thống cửa ở 4 mặt đều rất rộng, hệ thống vách ván lại được thay thế bằng kính sáng nên đứng ngay trong nhà người ta vẫn có thể quan sát rõ cảnh quan bên ngoài. Một số đố bản và vách ngăn trong nhà lại được trang trí rất tỉ mỉ bằng các bức chạm lộng, chạm thủng cực kỳ công phu nên càng tăng tính hiệu quả về mặt mỹ thuật.

Nhìn chung, cả về quy mô và hình thức kết cấu, Trường Du Tạ chỉ là một công trình kiến trúc tương đối nhỏ và đơn giản, nhưng bù lại, do đặt trong một không gian hợp lý Trường Du Tạ lại tạo được vẻ đẹp rất hài hoà và giàu chất thơ, xứng đáng dành làm nơi “thưởng tiết ưu du” cho các bà Mẫu hậu tại Tây cung.

2. Nghênh Lương Tạ

Nằm soi bóng trên bến Văn Lâu (tức bến Phu Văn Lâu), Nghênh Lương Tạ là một trong những công trình kiến trúc nổi tiếng

Nghênh Lương Tạ

nhất của Huế dù đây chỉ là một ngôi nhà tạ có quy mô vừa phải. Ca dao xứ Huế có câu: “ Chiều chiều trước bến Văn Lâu, Ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm, Ai thương ai cảm ai nhớ ai trông..” chính là chỉ vị trí thơ mộng này.

Nghênh Lương Tạ (thời Khải Định về sau gọi là Nghênh Lương Đình) là tòa nhà dành cho vua nghỉ ngơi hóng mát mỗi khi đến tiết hạ nóng nực (chữ Nghênh Lương Tạ có nghĩa là nhà Thủy Tạ để hóng mát). Nguyên xưa Nghênh Lương Tạ là một phần của hành cung Hương Giang dựng từ năm Tự Đức 5 (1852) ở bờ bắc sông Hương, trước mặt toà Phu Văn Lâu. Ngoài hành cung này, tại khu vực Huế, các vua Nguyễn còn có nhiều hành cung khác như hành cung Thần Phù, hành cung Thuận Trực, hành cung Thuận An, hành cung Thúy Vân...Tất cả các hành cung này đều có dựng nhà tạ để phục vụ nhà vua, tuy nhiên, đến nay duy chỉ có Nghênh Lương Tạ của hành cung Hương Giang là còn tồn tại. Vì vậy di tích này càng trở nên quí hiếm.

Nghênh Lương Tạ có kết cấu kiến trúc kiểu phương đình 1 gian 4 chái, gần giống như Trường Du Tạ. Nhưng phía trước và phía sau đều có nhà vỏ cua nối dài ra. Bộ khung gỗ ở phần trên, nhất là các vì vỏ cua cùng hệ thống liên ba được chạm trổ công phu. Mái nhà chính lợp ngói ống lưu li vàng, hai nhà vỏ cua lợp ngói liệt men vàng. Nền Nghênh Lương Tạ cao 90cm, bó vỉa bằng gạch vồ và đá Thanh. Phía bờ sông có 13 bậc cấp dẫn xuống một hành lang xây sát mặt nước sông Hương. Cảnh quan xung quanh nhà tạ thoáng đãng và rất trữ tình. Xét về cấu trúc không gian ở trục trước mặt Kinh thành, Nghênh Lương Tạ là điểm nối kết tuyệt vời giữa Kỳ Đài (cột cờ) - Phu Văn Lâu - Hương Giang - Ngự Bình. Và đây cũng là vị trí tuyệt vời để người ta ngắm nhìn, cảm nhận hết vẻ đẹp lãng mạn của sông Hương, nhất là vào lúc bình minh, khi hoàng hôn hay trong đêm trăng sáng: “Hương giang nhất phiến nguyệt, Kim cổ hứa đa sầu” (Một mảnh trăng dòng Hương, Xưa nay sầu vấn vương - thơ Nguyễn Du).

3. Dũ Khiêm Tạ

Dũ Khiêm Tạ

Ngôi nhà tạ bé nhỏ này cũng rất nổi tiếng bởi nó vốn là một bộ phận không thể thiếu được của quần thể kiến trúc lăng Tự Đức. Dũ Khiêm Tạ được dựng vào năm 1864, cùng với nhiều công trình khác của Khiêm Cung (sau khi vua băng và được táng vào đây mới gọi là Khiêm Lăng). Tự Đức là một ông vua thi sĩ và Khiêm Cung, một biệt cung kiêm lăng mộ của ông phản ánh rất rõ điều này. Gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ được bố trí hài hòa trong một không gian thiên nhiên, rộng trên 150.000m2. Nổi bật trong số đó bởi vẻ đẹp trữ tình, giàu chất thơ là hai ngôi nhà tạ ven bờ hồ Lưu Khiêm: Dũ Khiêm Tạ và Xung Khiêm Tạ.

Dũ Khiêm Tạ có kết cấu khá đặc biệt, bộ khung công trình chỉ là sự liên kết khá đơn giản gữa 3 bộ vì cùng kiểu giao nguyên -trụ đội, đặt từ cao xuống thấp, chia công trình thành 3 phần. Hai phần dưới đặt ngay trên mặt nước. Toàn bộ phần thân nhà để thoáng, chỉ có một hàng lan can con tiện thấp chạy bao quanh hai bên và mặt trước. Một chiếc thang gỗ đơn giản nhưng chắc chắn nối từ mặt sàn thấp nhất xuống hồ nước làm chỗ nhà vua bước xuống thuyền. Cấu trúc đơn giản, trang trí không cầu kỳ nhưng hiệu quả nghệ thuật do công trình đưa lại lại rất cao do sự hài hoà tuyệt vời với cảnh trí xung quanh.

4. Xung Khiêm Tạ

Xung Khiêm Tạ

Khác với Dũ Khiêm Tạ ở phía bờ hồ đối diện vốn là một bến thuyền của nhà vua, Xung Khiêm Tạ là toà nhà dành làm nơi ông câu cá, ngắm trăng, làm thơ..Quy mô công trình này lớn hơn Dũ Khiêm Tạ nhiều. Đây là một toà nhà kép theo lối “ trùng thiềm điệp ốc” rất phổ biến trong kiến trúc cung đình Nguyễn. Nhà chính (chính đường) cấu trúc như một ngôi nhà Rường lớn, nối trực tiếp với nhà trước (tiền đường) chỉ bé như một nhà vỏ cua thông qua một cột trụ chung. Phần phía trên của cột trụ này đặt một máng xối mà hai đầu đều được trang trí bằng hình cá gáy (cá chép) đang há miệng nhả nước rất độc đáo. Phần thân của nhà chính có vách ván che cả ba mặt (mặt sau và hai bên) nhưng toàn bộ nhà trước lại để trống tương tự như ở Dũ Khiêm Tạ.

Nhìn chung, tuy cấu trúc đơn giản, quy mô cũng không lớn nhưng do khéo chọn vị trí nên cả hai ngôi nhà tạ ở lăng Tự Đức đều tạo nên được vẻ đẹp rất hài hoà và thu hút du khách. Có lẽ đây cũng là ưu thế chung của tất cả các ngôi nhà tạ ở Huế. Mỗi khi vào hạ, đứng ở nhà tạ Xung Khiêm hay Dũ Khiêm lúc hoàng hôn, ngập tràn trong mùi hương sen đang nở rộ trên mặt hồ Lưu Khiêm, trong tiếng thông reo đùa với gió, người ta mới cảm nhận hết vẻ đẹp tuyệt vời của lăng Tự Đức. Có lẽ khi ấy người ta mới tin rằng, câu thơ: “Tứ bề núi phủ mây phong, Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng Vạn Niên” là chỉ dành riêng để mô tả chốn này.

Với tất cả những ưu thế và nét độc đáo đó, thật khó hình dung rằng, trong hệ thống kiến trúc cung đình Huế lại thiếu vắng những ngôi nhà tạ.

 
Theo TS. Phan Thanh Hải (hueworldheritage.org.vn)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Trong nghề đúc đồng, việc tạo mẫu có tính quyết định về nghệ thuật trong một tác phẩm. Là thế hệ thứ mười trong một gia đình có truyền thống làm nghề đúc đồng ở làng Dương Xuân xưa, nghệ nhân Nguyễn Văn Viện được tôn vinh là người thợ tài hoa, bởi khó có thể tìm thấy ở làng đúc đồng Huế người thứ hai có kĩ thuật điêu luyện và sức sáng tạo không ngừng như ông… 

  • Ngày 8-1, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Thừa Thiên - Huế tổ chức buổi tọa đàm kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, nguyên Bí thư Ðảng đoàn, Tổng Thư ký Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, Ủy viên Ban Thư ký Ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam, nhà trí thức yêu nước, người cộng sản kiên trung, người con ưu tú của quê hương Thừa Thiên - Huế. 

  • Ngựa là con vật được sử dụng nhiều trong các cuộc chiến tranh thời cổ. Hình ảnh ngựa gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của nhiều dân tộc, gắn liền với các võ tướng trên nhiều trận chiến. 

  • Mỗi lần đi ngang cầu Ca Cút đều có cái cảm giác “trời đất bao la, chìm đắm trong ta” cho dù buổi sáng, buổi chiều hay có khi về đêm. Cuối năm, khi ngọn giáo đông bắc còn căm căm, cảm giác đó chừng se sắt hơn...

  • Món xôi ống tưởng chừng như đơn giản này lại chứa đựng trong nó tất cả tinh hoa miền núi. 

  • Được Bộ VH-TT (nay là Bộ VH,TT&DL) công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia từ năm 1991, nhưng suốt nhiều năm qua, di tích Tuy Lý Vương nằm ở phường Đúc, TP Huế, bị nhiều hộ dân xâm hại một cách nghiêm trọng. Mặc dù các cơ quan chức năng tỉnh Thừa Thiên - Huế đã vào cuộc, tuy nhiên, do cách xử lý “nửa vời”, thiếu cương quyết nên đến nay, khu di tích này vẫn ở trong tình trạng “kêu cứu” từng ngày...

  • Ngược lên thượng nguồn sông Hương vào một ngày đầu năm 2014, chúng tôi đến thăm cụ ông Nguyễn Lô (82 tuổi), ở thôn Kim Ngọc, xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, Thừa Thiên - Huế, trong một căn chòi tạm bên cạnh lăng chúa Nguyễn Phúc Thái (Vị chúa thứ 5 của triều Nguyễn). Gần 40 năm qua, ông lão đã một thân một mình chống lại những kẻ đào trộm mộ để bảo vệ lăng chúa Nguyễn được vẹn toàn; đồng thời cũng khai hoang đất đồi phát triển kinh tế gia đình…

  • Kế Môn (Điền Môn, Phong Điền, TT- Huế) là quê hương của hàng ngàn người giàu có trên cả nước và thế giới. Bởi là quê quán của nhiều người giàu nên Kế Môn sở hữu lắm chuyện đặc biệt.

  • Năm 2010, tôi được về dự đêm thơ Quê Mẹ của nhà thơ Tố Hữu tổ chức tại TP Huế - quê mẹ của ông và có dịp được về thăm quê ông, một làng nhỏ bên dòng sông Bồ trong xanh. Thật thú vị vì đây cũng chính là quê hương của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh - Nguyên ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Chính ủy Quân giải phóng miền Nam. 

  • Những ngôi nhà vườn, nhà rường cổ ở Huế không chỉ có giá trị về mặt di sản kiến trúc mà còn thể hiện một cách sống động và chân thực nhất về đời sống của người Huế xưa. Nhưng vì nhiều lý do: tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, người dân thiếu tiền trong việc trùng tu bảo tồn …mà giờ đây, những ngôi nhà cổ nguyên bản đặc trưng xứ Huế đang mai một dần.

  • Ðồng chí Nguyễn Chí Thanh sinh ngày 1-1-1914, tên thật là Nguyễn Vịnh, là một nhà lãnh đạo Ðảng, Nhà nước, Quân đội kiệt xuất; nhà chính trị, quân sự mưu lược, tài trí, dũng cảm, kiên quyết; một người con ưu tú của quê hương Thừa Thiên - Huế. Ðồng chí đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Ðảng, của dân tộc. 

  • Từ một địa phương không có bệnh viện tuyến tỉnh, mọi hoạt động trong lĩnh vực y tế chuyên sâu chủ yếu dựa vào Bệnh viện Trung ương Huế là chính nên thường xuyên gây ra vấn đề quá tải. Để khắc phục tình trạng trên, thời gian qua, tỉnh Thừa Thiên Huế đã tập trung nhiều nguồn lực để xây mới 03 bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh. Đến nay, sau thời gian ngắn đi vào hoạt động, các bệnh viện này đã làm rất tốt công tác khám chữa bệnh, thu hút ngày càng nhiều bệnh nhân đến khám và điều trị.

  • Múa bao giờ cũng gắn kết với âm nhạc (nhạc đàn và nhạc hát), vì thế, người ta thường gọi tên là “Múa hát cung đình”. Múa hát cung đình của vua chúa Việt Nam không giống như hình thức vũ hội phương Tây. Nó chủ yếu phục vụ cho vua chúa, lễ lạc trong triều đình, mang hình thức lễ nghi phong kiến vương triều. 

  • Hội đồng chung khảo Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô lần thứ V đã lựa chọn được 40 tác phẩm, công trình (trong tổng số 45 tác phẩm, công trình do Hội đồng sơ khảo giới thiệu vào xét vòng chung khảo) đề nghị Chủ tịch UBND tỉnh trao giải thưởng A, B, C. 

  • Bác sĩ Trương Thìn  sinh năm 1940 tại Thừa Thiên Huế . Từ năm 1961 ông là  sinh viên Trường đại học Y khoa Sài Gòn .Ông  học giỏi, nhiệt tình tham gia phong trào học  sinh, sinh viên yêu nước, là trưởng đoàn văn nghệ sinh viên học sinh Sài Gòn trong  phong trào đấu tranh “Hát cho dân tôi nghe” những năm trước giải phóng.

  • Với người Tà Ôi ở miền rẻo cao A Lưới (tỉnh Thừa Thiên - Huế), từ xa xưa, những chuỗi mã não là biểu tượng của quyền lực, sự giàu có, sang trọng và có địa vị trong cộng đồng.

  • Chứa đựng trong mình cả một giai đoạn lịch sử thông qua các di tích, nét trầm mặc cổ kính, điệu hát cung đình Huế âm trầm cùng với sông Hương, núi Ngự… Huế vẫn sừng sững nghiêng mình tồn tại với thời gian qua sự thăng trầm của lịch sử, với thời gian và sự chống trọ trong chiến tranh.

  • Thời thượng, đâu cũng piano, ghi ta thì có một người vẫn ngày đêm lưu giữ và phục chế hàng ngàn cây đàn cổ quý báu của tổ tiên để lại.

  • Khi chọn Huế làm đất đóng đô, các vua chúa nhà Nguyễn đã quên mất một yếu tố quan trọng và cơ bản của phong thủy. 

  • Tác phẩm “văn sử bất phân” Xứ Đàng Trong - Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 - 18 (Nguyễn Nghị dịch, NXB Trẻ tái bản lần thứ nhất, quý 3/2013) của Li Tana, đã được trao giải Sách hay 2013..