MAI VĂN HOAN
Nhà thơ Trần Vàng Sao, tên thật là Nguyễn Đính, sinh năm 1941 ở thôn Vỹ Dạ, thành phố Huế.
Nhà thơ Mai Văn Hoan tại buổi giới thiệu tập thơ “Bài thơ của một người yêu nước mình”
Ông từng tham gia phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên. Từ năm 1965 đến 1970, ông lên chiến khu công tác tại Ban Tuyên huấn Thành ủy Huế và bắt đầu nổi tiếng với “Bài thơ của một người yêu nước mình”. Từ năm 1970 đến 1975, ông ra miền Bắc an dưỡng. Sau ngày thống nhất (1975), Trần Vàng Sao trở về quê, công tác tại Phòng Văn hóa thành phố Huế, rồi làm chân giao liên của xã Hương Lưu (nay là phường Vỹ Dạ) cho đến khi nghỉ hưu năm 1984. Ông mất ngày 9/5/2018 tại thành phố Huế.
“Thơ Trần Vàng Sao chính là cuộc đời ông. Tôi luôn mang cảm giác ông không theo bất cứ một trường phái nào, không dùng bất cứ một kỹ thuật hay phép tu từ nào… Thơ ông hiện ra như chính áo quần ông, tóc tai ông, hơi thở ông, giọng nói ông, cảm giác ông, mồ hôi ông, giận dữ ông, giày vò ông, tuyệt vọng ông, khát vọng ông… và nhịp đập trái tim ông là thứ kỳ diệu nhất gắn kết toàn bộ những gì thuộc về ông để vang lên thành thi ca. Bởi thế, thơ ông chân thực và mãnh liệt như máu chảy trong huyết quản ông (Lời tựa tập “Bài thơ của một người yêu nước mình”, Nxb. Hội Nhà văn, 2020). Với vài dòng ngắn ngủi này, Nguyễn Quang Thiều gần như đã khái quát được những nét khác biệt của thơ Trần Vàng Sao.
Đúng là Trần Vàng Sao rất ít sử dụng các biện pháp tu từ như: nhân hóa, so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng… nhưng có một biện pháp mà ông rất ưa dùng là biện pháp điệp từ, điệp ngữ, điệp câu. Chẳng hạn, cụm từ “tôi yêu đất nước này” được tác giả láy đi láy lại khá nhiều lần trong “Bài thơ của một người yêu nước mình”. Cụm từ này xoáy vào tâm can người đọc với bao day dứt, trăn trở, thương cảm: Tôi yêu đất nước này cay đắng, tôi yêu đất nước này xót xa, tôi yêu đất nước này áo rách, tôi yêu đất nước này rau cháo… Tôi dám cam đoan rằng: Trong nền thi ca hiện đại nước ta, đố ai tìm được tác giả nào sử dụng từ “tôi” và điệp từ “tôi” theo nghĩa đại từ nhân xưng mà tần số dày đặc như trong thơ Trần Vàng Sao. Viết về bản thân mình, ông xưng “tôi” đã đành; viết về đồng đội, Chử Đồng Tử, người mất trí, Từ Thức… ông cũng xưng “tôi”. Điều này cũng góp phần làm nên nét khác biệt của thơ ông.
Những người làm thơ viết văn nói chung đều có tài quan sát, phát hiện thế giới chung quanh. Nhưng mỗi tác giả có sở trường quan sát, phát hiện riêng, tùy thuộc vào tính cách, hoàn cảnh, sở thích, thói quen của từng người. Tiên thơ Lý Bạch nổi tiếng là người phóng khoáng, lãng mạn. Ông ưa chiêm ngưỡng cảnh núi cao, biển rộng, sông dài. Dù là cảnh thực hay cảnh do ông tưởng tượng đều được ông cường điệu, phóng đại cho ngang tầm vóc vũ trụ. Đây là hai câu cuối trong bài “Xa ngắm thác núi Lư”: Phi lưu trực há tam thiên xích/ Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên (Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước/ Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây). Trước Lý Bạch đã có bao thi nhân nhìn ngắm nhưng chưa một ai “tưởng” một cách khác thường như thế cả. Trần Vàng Sao thì ngược lại. Ông thường để ý đến những con người, những sự vật bé nhỏ, tội nghiệp ở nơi làng quê, ruộng đồng nghèo đói, bần hàn. Ông thấy những con ruồi ăn nước mũi khô trên má của những đứa bé chưa đầy hai tuổi buổi chiều không có cơm ăn… (Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình). Ông thấy: những bọt nước đen mắc đầu ngọn cỏ/ khúc củi rều trôi ngang (những ngày tôi còn nhỏ ở Vỹ Dạ). Ông thấy: con rạm chết dưới chân cây lúa ở nơi miệng còn bọt nước (trong cơn sốt đưa chị Miên về Đông Xuyên)… Những năm tháng chiến tranh khốc liệt, không nhà thơ nào nhìn thấy máu nhiều như Trần Vàng Sao. Nếu Hoàng Cầm chỉ thấy vài ba vệt máu loang chiều mùa đông (Bên kia sông Đuống), nếu Nguyễn Đình Thi chỉ thấy những cánh đồng quê chảy máu… (Đất nước), thì Trần Vàng Sao thấy máu từ trên trời/ máu từ dưới đất và cả máu trên bàn thờ (gọi tìm xác đồng đội). Ông nhìn thấy cả những cái vô hình ít ai nhìn thấy: khoảng vắng mùa thu ngủ trên cỏ may (bài thơ của một người yêu nước mình). Theo tôi, đây là một hình ảnh đẹp, một câu thơ hay viết về mùa thu trong thi ca Việt Nam… Không chỉ thấy, ông còn nghe: chiều chiều con chim chi bay ngang đập cánh (Những bài hát bà ru ba lúc nhỏ bây giờ con ru). Ông ngửi thấy: trong gió có mùi cơm cháy (Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình). Ông còn bắt được cả gió nhốt vào trong túi áo (Những ngày tôi còn nhỏ ở Vỹ Dạ)… Cách thấy, cách nghe, cách ngửi, cách bắt tinh nhạy, lạ lùng như thế cũng góp phần làm nên nét khác biệt của thơ ông. Trần Vàng Sao vẽ cũng không giống ai: tôi vẽ tôi buồn ngủ không gặp chiếu manh/ tôi vẽ tôi và vợ tôi ở lỗ ở trần ôm nhau nằm ngủ (Tôi vẽ tôi năm 1998). Ngay cả chuyện uống rượu cũng rất Trần Vàng Sao. Các thi nhân xưa nay thường uống rượu để quên sự đời: Rượu, rượu nữa và quên, quên hết! (Thơ say - Vũ Hoàng Chương), để chia sẻ: Rót đau lòng ấy vào đau lòng này” (Uống rượu với Tản Đà - Trần Huyền Trân). Còn Trần Vàng Sao thì: nói thật lúc này tôi muốn được say rượu/ họa may thấy một đồng thành ba bốn đồng (Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình). Đó là cách tìm đến rượu của một người thường không có một xu dính túi. Nhưng cái nghèo chưa phải là nỗi bất hạnh lớn nhất của nhà thơ Trần Vàng Sao. Chính mặc cảm lạc lõng, cô độc ngay giữa quê hương mình mới là nỗi bất hạnh lớn nhất của ông. Trong bài “Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình”, ta thấy ông: đi lui, đi tới/ phố phường đông chật/ tiếng cười tiếng la tiếng nói tiếng xe cộ/ chẳng ai quen thử nói chào tôi một tiếng. Từ mặc cảm lạc lõng, cô độc ấy, ông hóa thân vào nhân vật Từ Thức trong ngày chàng giã từ cõi tiên trở về cõi tục. Ông phải mượn lời Từ Thức để khẳng định với những kẻ từng nghi ngờ ông: tôi không phải là ma/ tôi không phải là quỷ. Và ông cay đắng thốt lên: tôi không nhận ra người/ người không nhận ra tôi/ tôi như ở giữa thinh không một mình/ tôi là người không ở được với người. Phần cuối bài thơ, ông không giấu được nỗi tuyệt vọng đau đớn: Từ Thức là tôi/ tôi là người/ ở đây có người không (Từ Thức).
Trần Vàng Sao yêu nước theo cách riêng của mình, yêu quê hương theo cách riêng của mình, yêu mẹ, yêu chị, yêu đồng chí, đồng đội cũng theo cách riêng của mình. Trong những tháng năm đất nước chia cắt, ngoài khát vọng thống nhất, ông còn có khát vọng hòa hợp dân tộc. Ông mong ước: cho bên kia không gọi bên này là người miền Nam/ cho bên này không gọi bên kia là người miền Bắc (Bài thơ của một người yêu nước mình). Biết đến bao giờ chúng ta mới thực hiện được mong ước cháy bỏng ấy của ông?
Trần Vàng Sao làm thơ chủ yếu theo điệu nói. Có cảm giác như ông nói thành thơ chứ không phải viết ra thơ. Giọng thơ ông đặc sệt giọng Huế. Gần như cái gì trong cuộc sống thường nhật của người dân Huế cũng được ông đưa vào thơ một cách hết sức tự nhiên (kể cả tiếng chửi: mả cha cuộc đời vô hậu). Ông đặt tiêu đề cho các bài thơ cũng không giống ai. Chẳng hạn như: “Bài thơ của một người yêu nước mình”, “Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình”, “Trong cơn sốt đưa chị Miên về Đông Xuyên”, “Đưa vợ đi đẻ”… Hình thức trình bày các bài thơ cũng không giống bất kỳ tác giả đương đại nào ở xứ ta. Chỉ trừ tên riêng, tên địa danh là ông viết hoa, còn thì chữ đầu của tiêu đề, chữ đầu mỗi câu, mỗi đoạn ông đều viết thường. Cả bài tuyệt không hề có bất cứ dấu chấm, dấu phẩy, dấu hỏi, dấu chấm than, dấu ba chấm, dấu ngoặc đơn ngoặc kép nào. Tất cả những nét khác biệt ấy làm nên cá tính sáng tạo, bản sắc, phong cách thơ Trần Vàng Sao. Chưa cần đọc, chỉ cần nhìn hình thức trình bày không thôi cũng đủ biết đó là thơ ông. Chẳng phải người làm thơ nào cũng có được những nét khác biệt độc đáo ấy.
Huế, 8/11/2020
M.V.H
(SHSDB39/12-2020)
Giới thiệu tập thơ đầu tiên của anh Khúc ru tình nhà thơ Ngô Minh viết: “Toàn từng làm thơ đăng báo từ trước năm 1975. Hơn 20 năm sau Toàn mới in tập thơ đầu tay là cẩn trọng và trân trọng thơ lắm lắm”.
1. Trước khi có cuộc “Đối thoại với Cánh đồng bất tận” trên báo Tuổi trẻ tháng 4. 2006, Nguyễn Ngọc Tư đã được bạn đọc biết đến với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt, giải Nhất trong cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi XX (lần 2) năm 2000, được tặng thưởng dành cho tác giả trẻ của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2000, giải B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2001…
Nhân ngày 9/5 chiến thắng phát xít Đức.
...Đưa người ta không đưa qua sôngSao có tiếng sóng ở trong lòng?...
Những năm đầu sau ngày miền giải phóng, có mấy lần nhà thơ Xuân Diệu vào các tỉnh Nam Trung Bộ và dừng ở Nha Trang ít ngày. Đến đâu Xuân Diệu cũng nói chuyện thơ, được người nghe rất hâm mộ, đặc biệt là giới trẻ.
Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.
1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).
(Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.
Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.
Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)
Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".
Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.
Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).
Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.
Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.
Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...
Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.
LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH
Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.
Có lẽ với phần lớn không gian thơ Phan Trung Thành, làm thơ là trò chuyện ân tình với những bóng dáng cũ, thuộc về quê nhà.