LE VIEUX SIMON
Hồi ký
Trong thời gian bị lưu đày ở đảo Réunion (1916 - 1945) hoàng tử Vĩnh San (tức cựu hoàng Duy Tân) đã có nhiều hoạt động văn hóa và chính trị.
Hoàng tử Vĩnh San - Ảnh: internet
Trong lĩnh vực nào ông cũng tích cực và để lại nhiều kỷ niệm khó quên trong tâm trí những người cộng tác và bạn bè ông. Theo yêu cầu của gia đình và báo chí trong nước, vừa rồi bà Gisèle (con gái ông Vĩnh Chương và là cháu gọi vua Duy Tân bằng bác ruột), hiện đang sống ở Réunion, đã gặp Ông già Simon (Le Vieux Simon) - một cộng sự quan trọng của hoàng tử Vĩnh San. Ông Simon đã nhiệt tình ghi lại những hoạt động của ông và hoàng tử Vĩnh San trong thế chiến II (1939 - 1945). Được phép gia đình và bà Gisèle, Sông Hương xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch tài liệu hiếm có nầy.
SÔNG HƯƠNG
Hoàng tử Vĩnh San và tôi rất thân nhau. Tôi biết ông ta từ 1936 trong Mặt trận nhân quyền mà ông ta là hội viên còn tôi là thư ký. Từ 1937 tôi càng biết ông ta mật thiết hơn khi tôi được kết nạp vào Ban hữu nghị, còn ông ta thì chính thức là đảng phái của Hội Kín(1) từ nhiều năm rồi. Do vậy chúng tôi đã trở thành bạn thân.
Ông ta nói vì hoàn cảnh tù đày và bị trục xuất, nhưng mỗi khi tranh luận, lời lẽ của ông gây ấn tượng sâu sắc đối với người nghe bởi những suy nghĩ đầy lương tri và những nhận xét rất khôn ngoan.
Tôi không bao giờ đến nhà ông ta, mà đến để làm gì? - khi chúng tôi đã gặp nhau vào ban đêm 2 - 3 lần mỗi tuần rồi.
Với lại cả hai chúng tôi đều bị theo dõi và ngày đêm bị đội cảnh sát của thống đốc Ôbe nghi ngờ có liên lạc với "nước Pháp tự do" kẻ thù của chúng. Vì vậy cần phải không để lại một chứng cớ nhỏ nào cho sự nghi ngờ ấy, nếu không tôi sẽ bị bỏ tù, còn ông bạn Vĩnh San của tôi sẽ bị xử bắn với bản án phản bội nước Pháp của Pêtanh. Nên hiểu rằng trước khi đi đày, ông ta buộc phải tuyên thệ không bao giờ chống lại chính phủ Pháp. Bởi vậy, đặc biệt trong năm 1942, chúng tôi phải hết sức cẩn thận trong hoạt động bí mật.
Ông Vĩnh San ở một ngôi nhà nhỏ 1 tầng tại góc phía bắc 2 đường La Buốc-đonne và Thánh Giôdép (đường Giuylơ- Ôbe bây giờ). Tính từ cuối năm 1940, vào 8 giờ mỗi tối, ông ta phát đi những tin tức nước ngoài bằng một loa phóng thanh đặt trên gác. Ở góc phố Thánh Đơni này, ông ta sẽ phát thanh tiếp sức thay cho Đài vô tuyến Barasoa thường ngậm câm về tin tức chiến tranh.
Nhiều thính giả trong vùng, ngay cả ở nơi xa, thường lệ đi bách bộ đến Barasoa, đứng ngoài đường, trước nhà ông ta để nghe tin tức đài Pari. Còn đài BBC, chỉ nghe trong buồng thôi cũng bị nghiêm cấm.
Mỗi tối những viên mật thám mặc thường phục thường trà trộn vào đám thính giả đêm. Gabrien Maxê đứng đầu đội bảo vệ Đại tướng cũng điều động đội viên bảo vệ của ông ta đến đó.
Ông bạn Vĩnh San của tôi có một máy thu phát, tất nhiên là bí mật, do tự tay ông chế tạo, phạm vi hoạt động của máy không vượt quá 200 hải lý. Với máy thu phát này, nhiều đêm ông ta đã đưa được tin tức đến các tàu thuyền ngang qua giữa các đảo Rêuyniông và Mađagátca và Môrixơ. Công việc này thường được tiến hành từ khoảng nửa đêm đến 3 giờ sáng.
Không bao giờ ông ta làm việc tại nhà ở, nhưng địa điểm điện đài của ông thường xuyên bị những tên "bạn ngoài ý muốn" quấy rầy, trong đó có Ghisa, nhưng ông ta vẫn cho qua để đổi lấy sự thuận lợi trong công việc. Vĩnh San hoàn toàn hiểu rằng nếu bị lộ thì ông sẽ bị xử bắn ngay vì tội phản bội.
Trong thời kỳ xảy ra Đại chiến thứ 2, những kẻ có chức có quyền cầm đầu đảo Rêuyniông tuyệt đối không muốn nghe gì về "nước Pháp tự do" đứng đầu là tướng Đờgôn.
Với lại người ta sẽ không bao giờ tha tội cho ông ta, một kẻ tù đày, bị đuổi và trục xuất khỏi Việt Nam. Vì vậy ông triệt để đề cao cảnh giác với tinh thần dũng cảm và không chịu bó tay trước tình hình như thế. Đối diện với đài kỷ niệm Rôlăng Giarô, chiếc cầu tàu Barasoa, dĩ nhiên là cái cũ trước kia - chạy dài gần 100m ra ngoài khơi, xưa kia dùng làm nơi cập bến cho tàu thuyền trước khi xây dựng cảng Mũi Đá Cuội (2).
Đoạn đầu chiếc cầu tàu này bước đầu là nơi thu phát lý tưởng. Khi thoát được đám "Khách đường La Buốcđonne", hoàng tử Vĩnh San đến đây sớm, vào 10 giờ đêm, trên một chiếc xe con đỗ lại ở đầu cầu. Tôi đã có mặt trước tại đó, tôi giúp ông ta khiêng ra khỏi xe một đống dụng cụ đi câu, đánh cá; nào là cần câu, nào mồi, nào túi v.v... và một cái lều bạt cắm trại, những đồ để ngủ, và tất nhiên có cả máy thu phát nhỏ được giấu kín cẩn thận trong mớ đồ đạc ấy. Chúng tôi bắt đầu dựng lều ở góc phía tây đầu cầu tàu, sau đó bắt tay vào câu cá. Hầu như bao giờ cũng có một vài người đi dạo khuya trên những thanh tà vẹc dưới đoạn cầu nơi câu cá.
Khi tất cả trở lại yên tĩnh, cũng như kẻ đi dạo và người đi câu đều đã ra về, chỉ còn hai chúng tôi, lúc bấy giờ Vĩnh San mới bắt đầu phát tin đi vào nửa đêm. Có những tối sự có mặt của một người đi câu nào đó gan lì và dai dẳng hoặc của một cặp tình nhân nào đó còn thèm khát yêu đương thì ông ta hết sức bị trở ngại, không tiến hành được gì hết.
Còn tôi, nếu hoàn cảnh thuận lợi, tôi nhấc cần và mồi lên khỏi mặt nước, rồi đóng vai của tôi tức là canh gác đầu cầu và báo động kịp thời bằng một điệu huýt sáo miệng đã quy ước trước, nếu có kẻ nào không mời mà đến quấy rầy. Vả lại thời gian được tính toán đủ để Vĩnh San kịp thu giấu mọi thứ rồi vờ thả câu hoặc vờ ngủ. Còn tôi, nếu kẻ đến không đúng lúc ấy tiến tới gần đầu cầu thì tôi lại nhấc cần câu lên. Cứ như vậy mỗi tuần vào thứ 3 và thứ 6 cái cảnh ấy lại diễn ra đều đặn.
Công việc kéo dài được đến đầu năm 1942 cho đến khi chúng tôi cảm thấy sự kiểm soát của đội cảnh sát trở nên hết sức ráo riết và chặt chẽ, đặc biệt tôi bị một "ông bạn mật thám" bám sát cạnh nhà xe của nhà tôi ở.
Di chuyển đi đâu bây giờ? vì hai chúng tôi đều giống nhau ở chỗ không ai muốn đầu hàng và khóa miệng chiếc máy thu phát cả.
Vĩnh San nghĩ ngay đến nghĩa địa phía đông quay mặt ra khơi. Chúng tôi sẽ phát tin từ hốc của một cái huyệt đã bị hỏng. Đây là một ý tốt vì ban đêm các nghĩa địa ít bị "thăm viếng" hoặc vì mê tín hoặc vì tín ngưỡng, chúng tôi suy nghĩ về điều này một thời gian rồi gạt bỏ ý định ấy, bời vì không cách xa "nghĩa địa tình nguyện quân" bao nhiêu, Sabơn cảnh sát trưởng của thống đốc Obe đã đặt một vọng gác ở đấy rồi. Với lại 3 cánh cửa lớn của nghĩa địa lại đóng kín từ 6 giờ chiều, muốn vào phải trèo qua một bức tường cao 2m. Nếu đi vào đấy từ phía bờ biển có được không? Cũng không được, vì có cái vọng gác, còn bãi biển đầy đá cuội từ nhà ga đến nghĩa địa thì quá dài. Bởi vậy chúng tôi phải nghĩ đến một cách giải quyết khác.
Một ý nghĩ chợt đến với tôi, tôi liền đề nghị với ông bạn Vĩnh San lấy khu vườn Buyto của tôi đã cày xới từ ngày thống chế Pêtanh quyết định tôi nghỉ hưu vào tháng 1 năm 1942 - Ấy là một khu đất rộng trên 1 héc ta trồng xoài và dừa. Khu vườn này chạy một mạch từ đường Đôphinnơ, phía núi, cách đại lộ, phía biển (tướng Lêkléc) chừng 30m. Khu đất này thuộc quyền sở hữu của anh tôi và hoàn toàn kín đáo vì có tường cao 2m bao bọc, hơn nữa lại biệt lập với mọi nhà ở khác. Người ta vào đó phía đường Đôphinnơ qua một cái cửa lớn cũ kỹ gần bị hư hỏng, và đóng lại với một sợi dây thép.
Ở đây chiếc xe con của hoàng tử có thể lăn bánh vào và được vườn cây quả u tối che khuất. Từ đại lộ phía biển, một đường hẽm nhỏ hẹp cũng có thể dẫn ta đến đây.
Ban ngày khi làm vườn, tôi thường đi con đường hẽm này. Nơi đây vắng vẻ, ít ai lui tới ngay cả ban ngày, chúng tôi đã quyết định tiếp tục những buổi phát tin của chúng tôi. Một chiếc thang xếp và một cây xoài lớn um tùm cành lá nhìn ra đại dương đã tạo điều kiện thuận lợi cho công việc.
Ngồi 2 chân kẹp lấy cành, tấm lưng dựa vững vàng chắc chắn, hoàng tử Vĩnh San như một người cưỡi ngựa đua kỳ tài. Ông ta cho chiếc máy thu phát của mình hoạt động mỗi tuần 2 - 3 lần, từ tháng 5 cho đến tháng 11 năm 1942. Và như vậy, trước ngày đổ bộ của người "Pháp tự do", đêm 26 rạng ngày 27 tháng 11 năm 1942, hoàng tử đã bắt được liên lạc với tàu "Con Báo"(3).
Đại tá Risa không biết vì lý do gì, hình như đã giấu và chối chuyện bắt liên lạc này. Sự thật là việc này đã có. Hoàng tử đã phát đi những chỉ dẫn để cuộc đổ bộ được chắc chắn và thuận lợi nhất, bảo đảm an toàn nhất, có nghĩa là trên bãi biển phía đông nghĩa địa, phía dưới cửa sông Buyto vì ở đấy không có vọng gác.
Rạng sáng ngày 28 tháng 11 năm 1942 những thủy thủ đầu tiên của tàu "Con Báo" đã bơi xuồng hơi cập vào đúng nơi ấy.
Nguyên bản tiếng Pháp:
Le vieux Simon
Người dịch: T.T.H
(TCSH41/02&03-1990)
------------------
(1) Franc - macon.
(2) Pointe des Galets.
(3) Le Léopard.
TRẦN THÙY MAI.Năm giờ sáng, máy bay chở chúng tôi đáp xuống sân bay Incheon. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên vang lên với lời cảm ơn và câu chào tạm biệt, sau khi báo một thông tin làm chúng tôi ớn lạnh: Nhiệt độ bên ngoài là 4 độ C...
ĐẶNG NHẬT MINHLà một thương cảng của Nhật Bản, nhưng Fukuoka lại được nhiều người biết đến như một thành phố của nhiều hoạt động văn hoá mang tầm quốc tế. Tôi có duyên nợ với thành phố này từ năm 1991 khi được mời tham dự Liên hoan phim quốc tế Fukuoka lần thứ nhất với bộ phim Bao giờ cho đến tháng 10.
PHẠM XUÂN PHỤNGChữ tea trong tiếng Anh là do dùng mẫu tự La -tinh để ký âm chữ trà (âm Hán Việt) mà người Trung Hoa nói rất rõ là chè. Lâu nay cứ tưởng chè là tiếng thuần Việt hoặc là biến âm của trà, hóa ra chè lại là từ gốc của trà. Mẹ mà nhầm là con, vui thật.
BÙI NGỌC TẤNLần đầu tiên đặt chân tới Châu Âu, có biết bao nhiêu ấn tượng. Ấn tượng về những nét mặt người, về những dáng người đi, về bầu trời không vẩn bụi trong veo, về những xa lộ, về những chiếc xe phóng với tốc độ 140 kilômét không một tiếng còi, nối nhau trên các con đường tám đến mười làn xe chạy không còn biên giới cách ngăn...
NGUYỄN VĂN DŨNGCó người nói Praha đẹp hơn Paris . Tôi không tin. Nhưng bây giờ thì tôi thấy nhận xét ấy không phải không có căn cứ. Praha là thành phố cổ kính nguyên vẹn nhất châu Âu, là “thành phố của trăm tháp vàng”, là “bài thơ bằng đá”, là khúc hát đắm say, là cốc rượu nồng nàn, là bức tranh tuyệt mĩ, là mảnh thời gian còn sót lại... Năm 1992, Praha được công nhận là di sản văn hoá thế giới.
PHẠM THỊ CÚCCó người nghĩ rằng, ở các nước giàu, thì ít người thất nghiệp. Không đâu, ở Pháp, người thất nghiệp cũng khá nhiều, mà đâu phải vì không có bằng cấp mà thất nghiệp, đa số họ đều có bằng kĩ sư, cử nhân, cả thạc sĩ hẳn hoi.
NGUYỄN VĂN DŨNGAmazon là tên khu rừng lớn nhất thế giới. Amazon cũng là tên con sông, theo khảo sát mới đây, là con sông dài nhất thế giới. Amazonas, quê hương của hai Amazon kia, là bang rộng nhất trong 26 tiểu bang của Brasil - rộng hơn cả diện tích của nước Anh, Đức, Pháp, Ý cộng lại. Còn Manaus, là kinh đô của Amazonas miên man núi rộng sông dài.
NGUYỄN VĂN DŨNG Tôi thật sự xúc động khi đứng trước ngôi mộ của Lý Tiểu Long. Trước đây tôi hình dung nơi an nghỉ cuối cùng của anh phải là một ngôi đền cực kỳ tráng lệ cho xứng với tên tuổi lẫy lừng của anh. Sau khi anh mất, một tờ báo ở Sài Gòn hồi đó viết đại loại trong thế kỷ XX, anh là một trong ba nhân vật nổi tiếng nhất châu Á.
NGUYỄN VĂN DŨNGVới Phật giáo, Linh Thứu là ngọn núi thiêng. Sau khi thành đạo, một thời gian dài Linh Thứu là trú xứ của đức Phật và các đệ tử của Ngài. Tại đây Ngài đã giảng kinh Pháp Hoa và nhiều bộ kinh quan trọng khác. Linh Thứu còn là nơi khởi phát dòng Thiền Ấn Độ để rồi từ đây hạt giống Thiền được gieo trồng khắp nơi trên trái đất.
PHẠM PHÚ PHONGTrong lịch sử đất nứơc Trung Hoa có sáu nơi được chọn làm thủ đô, theo thứ tự Lạc Dương, Tây An, Nam Kinh, Khai Phong, Hàng Châu và Bắc Kinh là thủ đô thứ sáu, tồn tại cho đến ngày nay. Bắc Kinh đầu tiên là kinh đô của nước Yên, nên còn gọi là Yên Kinh, sau đó đến thời Minh Thành Tổ cho xây dựng trở thành Bắc Kinh ngày nay. Với diện tích 18.826 km2, Bắc Kinh rộng gấp 18 lần so với thủ đô Hà Nội, được mệnh danh là thành phố bốn nhiều: nhiều người, nhiều xe, nhiều cầu vượt, nhiều di tích...
Từ một trại lính đầy vết đạn ở vùng California (Hoa Kỳ) đã xuất hiện một tu viện Phật giáo - Tu viện Lộc Uyển - do nhà sư gốc Huế - Thiền sư Thích Nhất Hạnh - gầy dựng. Tại đây, ảnh hưởng của Thiền học Việt Nam đã tạo được một sự chuyển hóa đầy thử thách: biến trung tâm luyện tập bắn súng trở thành thiền đường đầy ánh sáng và tình thương, có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiếu người ở Hoa Kỳ.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Teresa Wattanabe đã đăng trên tờ Los Angeles Times, tờ nhật báo lớn hạng ba của Hoa Kỳ, với bản dịch của Làng Mai và ảnh của Nguyễn Đắc Xuân để giới thiệu với bạn đọc như một dòng chảy của văn hóa Phật giáo xứ Huế.
TRẦN THÙY MAICác quan chức ngành khí tượng Nhật Bản đã cúi gập mình xin lỗi toàn dân: Hoa anh đào sẽ nở ngày 23 thay vì 16 - 3 như dự báo. Đến sân bay Narita vào đúng sáng 24, tôi tự nghĩ mình đến rất kịp thời, nên khi cậu cảnh sát làm thủ tục nhập cảnh hỏi về mục đích đến Nhật, tôi đã không ngần ngại trả lời chắc nịch: “Ngắm hoa anh đào”. Cậu cảnh sát khoanh cái rụp vào lời khai của tôi và “OK” ngay với một nụ cười trên môi.
NGUYỄN VĂN DŨNGNằm giữa trung tâm bán đảo Iberia, thủ đô Tây Ban Nha trải rộng trên các ngọn đồi dưới chân rặng Sierra de Guadarrama, ở độ cao 640m so với mặt nước biển - là thành phố cao nhất châu Âu. Diện tích 607 km2. Dân số gần 4 triệu người.
KEVIN BOWEN
(Giám đốc WJC)
LTS: Trong 25 năm qua tên tuổi nhiều nhà văn, nhà thơ của Trung tâm William Joiner (Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ) như Kevin Bowen, Fred Marchant, Nguyễn Bá Chung, Lady Borton, Martha Colline, Bruce Weigl, Lary Heinemann... đã xuất hiện trên Sông Hương cũng như trên nhiều báo chí văn nghệ, văn hoá trong nước với những tác phẩm tâm huyết, mến yêu đất nước Việt Nam cũng như những hoạt động trên các lãnh vực giao lưu văn hoá, giúp đỡ y tế, giáo dục cho Việt Nam sau chiến tranh, như những biểu hiện của sự ân hận, tủi hổ với những gì mà đất nước họ đã gây ra trên mảnh đất này.
NGUYỄN BÁ CHUNG
Tháng 10 năm 2007 đánh dấu 25 năm thành lập trung tâm Joiner. Nhưng với tôi, nó đánh dấu một đoạn đường 20 năm nổi chìm với trung tâm, trong đó có 15 năm làm thiện nguyện và 10 năm cuối cùng làm việc chính thức. Hai mươi năm là một thời gian dài đủ để nhìn lại, ghi lại một số kỷ niệm và rút ra một số kinh nghiệm để nhìn tới đoạn đường phía trước.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNHoạt động yêu nước ở miền Nam từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi không lạ gì nước Mỹ. Thuở ấy, Phan Ch. anh bạn vong niên của tôi làm phiên dịch ở cơ quan MACV ở Huế từng bảo tôi “Người Mỹ giống như một cậu bé con nhà giàu nhưng thiếu lễ độ”.
VÕ QUÊNhận lời mời của Hội đồng quốc gia vì nghệ thuật truyền thống Hoa Kỳ (National Council for the Traditional Arts), đoàn nghệ sĩ thuộc Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tham dự Festival dân ca dân nhạc tại thành phố Lowell, bang Massachusetts, Hoa Kỳ từ ngày 25-7-1995.
NGUYỄN XUÂN THÂMChúng tôi đến Aten vào cuối tháng chín, mà buổi trưa vẫn còn oi bức như bao trưa miền biển ở Việt . Thanh Tùng và tôi loay hoay mãi vẫn không bắt được taxi để chuyển tiếp đến sân bay nội địa.
NGUYỄN VĂN DŨNGSau Cali tôi định đi Dallas, nhưng rồi chuyển hướng, tôi lên Seattle theo vẫy gọi của bạn bè. Ai ngờ cái thành phố nầy dịu dàng, xanh và đẹp đến vậy. Hèn chi người ta gọi nó là “Thành phố ngọc bích” ( Emerald City ), hay “Mãi mãi xanh tươi” ( Evergreen State ).
PHẠM THƯỜNG KHANHĐầu năm nay khi biết tôi chuẩn bị đi công tác Trung Hoa, em gái tôi, một người thơ gọi điện từ Huế ra bảo: “Anh cố gắng mà cảm nhận vẻ đẹp rực rỡ của văn minh Trung Hoa. Hình như với bệ phóng vững chắc của nền văn minh hàng ngàn năm ấy, người Trung Hoa đang có những cuộc bứt phá ngoạn mục và trong tương lai dân tộc này còn tiến xa hơn nữa”. Là một quân nhân, tôi đâu có được trí tưởng tượng phong phú và trái tim dễ rung động như em tôi, nhưng 10 ngày trên đất nước Trung Hoa đã để lại trong tôi những ấn tượng thật sâu đậm.