(Một vài trao đổi với nhà thơ Dương Tường)
NGÔ THẾ OANH
(thực hiện)
Chân dung tự họa: Dương Tường
Ngô Thế Oanh (N.T.O) : Cách đây hơn hai mươi năm, khi còn là một học sinh trung học, ở nhà một diễn viên điện ảnh, giữa những sách vở bề bộn, những bức tranh Bùi Xuân Phái với những gam màu nâu hay xám đượm buồn, tôi được biết có những dòng thơ :
Những ngón tay mưa / Dương cầm trên mái... Những ngón tay mưa / Chuồi theo phố lạnh / Màu nâu cảm tính / Đường parabole tư duy...
Sau đó là chiến tranh. Trên những nẻo đường Trường Sơn, không hiểu sao, đôi lúc tôi thường nhớ đến căn phòng người nghệ sĩ điện ảnh và những câu thơ kia. Mãi gần đây tôi mới được biết đó là thơ anh. Và tuần rồi, trên báo Văn Nghệ : Tôi đứng về phe nước mắt / Một thoáng rơn tên là heo may / Chiều se sẽ hương... Có những người in hàng mươi tập thơ, nhưng với họ, thơ vẫn hoàn toàn hờ hững. Và ngược lại. Hình như với anh, thơ cũng chính là số phận.
Dương Tường (D.T) : Mình cũng nghĩ như vậy đấy, Oanh ạ. Phải, cho phép mình giữ cách xưng hô thân mật này, bởi vì chính cái giọng ta chọn dùng ngay từ đầu, nhiều khi quyết định chất lượng của một cuộc trao đổi. Chỉ riêng cách đặt vấn đề của Oanh đã làm tôi thực sự xúc động. Được biết một đôi câu thơ của mình đã từng là bạn đồng hành với Oanh trên những nẻo đường Trường Sơn, quả là một an ủi lớn. Mà lại là những câu thơ dường như không dính dáng gì đến chiến đấu. Mới hay cái quan điểm hướng lái người viết theo đề tài, chứ không theo những rung cảm thực của tâm hồn, là thô thiển "sát đất" biết chừng nào!
Trở lại câu chuyện của chúng ta. Minh không tin rằng người ta có thể trở thành nhà thơ. Người ta có thể trở thành kỹ sư, họa sĩ, nhà khoa học, nhà kinh tế, nhà chính trị, thậm chí nhà văn ... chứ không trở thành nhà thơ. Hoặc anh là thi sĩ, hoặc anh chẳng bao giờ là thi sĩ. Thế thôi. Các cụ ta gọi đó là cái nghiệp, cái căn. Với mình, điều nghịch lý chua chát nằm ở chỗ : chưa kịp là nhà thơ, mình đã thành dịch giả. Mình trở thành dịch giả phần vì mê văn học, phần vì hoàn cảnh bắt buộc phải kiếm sống. Thành thật mà nói, mình đích thị là một gã bất đắc chí về mọi mặt: học hành dở dang (mình chưa có nổi tấm bằng trung học phổ thông, Oanh à !), tri thức dở dang, nghề ngỗng dở dang... ấy vậy mà thơ văn cứ đeo đẳng réo nợ tôi hoài, nhiều lúc tôi lang bang, sang địa hạt khác : hát xướng, viết nhạc, vẽ... nhưng chung quy, theo tôi, đó chỉ là những ứa trào của thơ theo những kênh khác mà thôi.
N.T.O : Tập ba mươi sáu bài tình của anh và Lê Đạt gần đây khiến nảy sinh không ít ý kiến trong dư luận người đọc cũng như các nhà phê bình. Cũng cần nhắc thêm, trước đó có tập Ngựa biển của Hoàng Hưng (anh có viết bài trên mục điểm sách của báo Văn Nghệ) cũng gây những xôn xao tương tự. Vẫn biết Max Jakob có nhắc: Thơ hiện đại vượt qua mọi lời giải thích (La poésie moderne saute les explications), và chính tôi nữa, khi đọc một số các nhà thơ đương đại, tôi phải luôn tự nhắc mình : Thơ phải là một phá sản của trí tuệ (La poésie doit être une débâcle de l'intellect - A. Breton). Nhưng anh có thể nói lại đôi điều gì đó với những bạn đọc quan tâm đến thơ cũng như các nhà phê bình đã viết về anh không? Về riêng anh, cũng như những mạch tìm tòi sáng tạo trên hướng cùng với anh.
D.T: Anh nói đến các nhà phê bình đã viết về tôi? Xin lỗi, nhưng tôi không nghĩ đó là những nhà phê bình, theo tôi, đó chỉ là những người đọc chưa quen với một thi pháp không giống những giọng thơ họ thường nghe. Phản ứng của họ cũng giống như phản ứng của những người chỉ quen xem tranh thời Phục Hưng bỗng nhiên bị ném vào giữa những tác phẩm của Miro, Dali, Kandinski... chẳng hạn. Họ có quyền phát biểu ý kiến của mình, khỏi phải bàn nhiều.
Về hướng tìm tòi trong thơ, tôi xin nói gọn mấy điểm sau đây:
1/ Tôi hoàn toàn nhập mình với quan điểm của P.Verlaine : "Trước hết, phải có nhạc" (De la musique avant toute chose). Nhạc là một yếu tố rất quan trọng cấu thành thơ tôi, ở tôi, thi hứng và nhạc hứng quyện với nhau làm một. Và vật liệu chính của thơ tôi không phải là con chữ mà là con âm.
2/ Có lẽ điều phân biệt giữa các bạn thơ khác và tôi là ở chỗ họ làm việc ngôn ngữ trên chiều biểu nghĩa (signifié) - tôi nói "chiều" theo nghĩa chiều bề dọc, ngang... (dimension) chứ không theo nghĩa chiều hướng - còn tôi làm việc ngôn ngữ trên chiều năng nghĩa (signifiant)(*). Những gì ở thơ họ là đã thì ở tôi là đang. Nói cách khác, ở thơ các bạn đó là mặt chữ nhìn thẳng (de face), còn ở tôi là mặt chữ nhìn nghiêng (de profil). Tôi nghĩ sức gọi của thơ mình nằm ở mặt chênh đó, nó nảy lên một cái gì giống như âm bồi (son harmonique) trong âm nhạc vậy. Tôi muốn đi theo một thi pháp âm bồi nếu có thể gọi thế. Và nếu như những câu thơ tôi có một nghĩa nào đó thì là do các âm chữ hắt ánh lên thành một thứ cầu vồng trên mặt chữ mà thôi.
3/ Có lẽ cũng cần phải nói thêm rằng một số bài thơ của tôi mang tựa Sérénade (I, II...) hay Romance (I - II) không phải vì tôi sính tiếng Tây, mà đó là những loại hình nhạc đã có tên xác định. Vì thế, tôi muốn cách trình bày bài thơ giống như một kiểu ký âm, không phải bằng nốt, mà bằng chữ, với những cự ly khác nhau giữa các chữ trong cùng một câu, cự ly lớn hơn tương đương với một dấu lặng trong âm nhạc.
4/ Nói cho cùng, Oanh ạ "ngón" thơ - con - âm, mình học chính ở bà cô tổ họ Hồ của chúng ta với những "Hang Cắc Cớ", những "Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo”, (Bài "Noel II" của mình là một biến tấu âm hình trên câu thơ này)... Và kể rộng ra thế giới, hình như tạng mình khá gần gũi với hai bậc thầy G. Apollinaire và E. Cummings. Ngoài ra, mình cũng có một số thể nghiệm theo một hướng mà mình tạm gọi là trực thị. Phải, thơ trực thị (poésie visuelle), Oanh ạ. Sắp sửa lại có người hô hoán lên là tà đạo ấy... Dù sao đấy mới chỉ là tìm, còn có thấy hay không lại là chuyện khác. Kim, cổ dễ mấy ai được như bác Picasso : "Tôi không tìm, tôi thấy" (Je ne cherche pas, je trouve) !
N.T.O : Hẳn là anh luôn quan tâm theo dõi và suy nghĩ không ít về bề mặt thơ đang có của chúng ta. Những được và chưa được. Dĩ nhiên là trên cách nhìn hoàn toàn riêng anh. Có thể là cực đoan nữa. Về những người viết hôm nay. Về những hướng tìm kiếm và những hy vọng cũng như cay đắng (có thể và rất nhiều) đang chờ đợi nó. Đang tồn tại cả niềm vui lẫn với lo âu. Nhất là trong thời chúng ta. Những ngày này...
D.T. : Tôi là người đọc khó tính và tôi muốn đánh giá văn học ta theo những tiêu chuẩn tuyệt đối. Thực tình, xét bề mặt thơ đã đăng, cả trên báo chí lẫn in thành sách, lắm lúc rất nản. Tất nhiên cũng có những bài hay, nhưng tỷ lệ quá thấp.
Nhìn chung, những người có thơ đăng viết giống nhau quá, mấy chục năm vẫn vậy, phần thì thiếu đời sống thơ nội tại, phần thì cưỡng cảm xúc theo chiều thời sự chăng? Ít có nhà thơ đạt được đến chỗ, bịt tên ký bên dưới, người đọc tinh tường vẫn có thể nhận ra bút pháp, phong cách. Có một thực tế: nhiều nhà thơ hiện nay coi trọng phần sáng tác trong ngăn kéo của mình hơn nhiều so với phần đã công bố. Và quả là nó có khá hơn nhiều. Thậm chí có người nhắc đến những gì đã in của mình với giọng gần như tự miệt thị : "Chậc ! Thơ đăng báo ấy mà !" Có nghĩa là việc xét chọn thơ đăng báo của các tòa soạn tuy có nới hơn trước, nhưng vẫn chưa thật sự cởi mở, thoải mái. Đâu phải cái gì cũng in được, mọi tìm tòi đều có thể công bố. Cho nên tôi vẫn tin ở những mạch ngầm hơn.
Với lại, thơ hay bao giờ cũng hiếm. Xét theo tiêu chuẩn tuyệt đối, số nhà thơ thực sự lớn ở nước ta, từ giữa thế kỷ 19 đổ về trước, chắc không quá mười cụ, còn thời hiện đại và đương đại may ra được một vài...
Nói cho cùng, sáng tạo ở thời chúng ta thật là khó. Tôi nghĩ Roland Quilliot, nhà phê bình văn học Pháp, có lý khi ông nói: "Văn minh thế kỷ 20 cho rằng mình biết và phụ trách những sản phẩm văn hóa của tất cả những nền văn minh trước nó. Hậu quả hiển nhiên nhất là người sáng tạo đương đại thấy mình không được quyền hồn nhiên và ngây thơ : anh ta đến sau những người khác mà anh ta không thể không biết đến, cũng chẳng thể lặp lại họ. Chẳng hạn, nếu là nhạc sĩ, anh ta đừng hòng làm lại như Bach hay Beethoven, bởi ngay cả nếu kết quả có êm tai, có thật sự đẹp, nó cũng hoàn toàn vô nghĩa về mặt mĩ học". Chúng mình hết lòng kính trọng Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Cao Bá Quát... dành cho mỗi cụ một bát hương trên bàn thờ tổ, song làm lại như các cụ thì không thể được, trăm ngàn lần không được.
N.T.O : Là một dịch giả được yêu mến, anh đã chọn nhiều tinh hoa trong văn học thế giới, cổ điển cũng như hiện đại, từ L.Tolstoi đến Kazantzakis. Nhưng không hiểu sao, tôi vẫn luôn có ý chờ đợi ở anh trong việc chọn dịch những bài thơ hiện đại. Anh quá dè dặt hay chưa có thời gian dành cho công việc này. Dĩ nhiên là một nan khúc. Dĩ nhiên với thơ thì ở nơi nào cũng có bạc bẽo. Nhưng anh là người thích những thử thách trong tìm kiếm nghệ thuật. Liệu tôi có hiểu anh không?
D.T. : Đâu có, trong một bài phát biểu, mình đã nói xưa nay mình vẫn tự coi là một dịch giả "a-ma-tơ". Có lẽ mình hơi cầu toàn chăng? Thực tình, mình cũng có ý định chọn dịch một số nhà thơ lớn của thế giới nhưng thấy khó quá, đôi khi khó hơn cả làm thơ. Octavio Paz, nhà thơ lớn của Méhicô nói : "Nhiều nhà thơ không dịch được thơ không chỉ vì lý do tâm lý (cho dù cũng một phần do bệnh tự tôn) mà còn vì lý do chức năng: dịch thơ là một công việc giống như làm thơ, có điều nó được thực hiện ngược chiều ... không phải dùng những ký hiệu cơ động để cấu thành một văn bản bất động, mà là tháo rời các bộ phận của văn bản, làm cho các ký hiệu chuyển động trở lại, trả chúng lại cho ngôn ngữ...". Trên thực tế, mình đã từng dịch Eliot, Yeats, Quasimodo và một số thơ Haiku Nhật Bản, nhưng tự thấy không vừa ý. Dịch những nhà thơ lớn mà không truyền đạt được tinh thần thi pháp cũng như chất ngọc ngôn ngữ của họ, mình cho là một sự bất kính. Như trường hợp tập thơ Pháp hiện đại mang tựa đề "Cái chết, tình yêu, sự sống" gần đây do NXB Tác Phẩm Mới in song ngữ, vừa dở vừa nhiều chỗ sai. Mình cũng có dịch một số thơ hiện đại Việt Nam sang tiếng Pháp và tiếng Anh thấy "ngon" hơn nhiều.
N.T.O : Một thập niên nữa là kết thúc thế kỷ chúng ta. Một thế kỷ đầy biến động. Không ít hy vọng. Cũng không ít mệt mỏi. Anh hẳn đã nhiều suy nghĩ. Và riêng với thơ...
D.T. : Không những kết thúc thế kỷ mà còn kết thúc cả thiên niên kỷ. Ờ, tính theo tỷ lệ thiên niên kỷ thì chúng ta đã qua tết ông táo rồi đấy. Mình ao ước biết bao được thấy phút giao thừa ấy. Thơ đến lúc đó, sẽ như thế nào nhỉ? Mình nghĩ dù là tiếp nối, hay dứt hẳn với quá khứ, thơ trước sau vẫn là một phương thức sống. Thơ đã từng tồn tại với người hang động, thơ sẽ tồn tại với con người của những thời đại đi vào trăng sao. Riêng nhà thơ thì vẫn một mình, như Saint-John Perse, "ngồi trong tình bạn của đầu gối tôi" ...
6.1990
N.T.O
(TCSH47/05-1991)
-----------------
(*) Cụ Đào Duy Anh, vị quốc sư quá cố (tôi gọi vậy vì có mấy ai không từng học chữ của cụ qua các cuốn từ điển do cụ soạn) gọi signifié là sở biểu và signifiant là năng biểu. Có thể định nghĩa gọn như sau : Sở biểu là nội dung ngữ nghĩa của ký hiệu (signe), còn năng biểu là biểu hiện vật chất của ký hiệu, chuỗi âm vị làm giá đỡ cho một ngữ nghĩa.
YẾN THANH
Đối với mỗi người Việt Nam, chuột là một “người hàng xóm” tự nhiên quen thuộc. Thật ra, trong lịch sử của loài người, có lẽ không loài động vật nào gắn bó tự nhiên với chúng ta hơn loài chuột.
NGỌC TRAI
Văn học ta trong những năm gần đây đang có dấu hiệu chuyển hướng và đổi mới một cách đa dạng, phong phú.
DƯƠNG BÍCH HÀ
Văn hóa dân gian, trong đó có âm nhạc, là một bộ phận nghệ thuật quan trọng trong nền văn hóa đa dân tộc của Việt Nam. Nó phản ánh sâu sắc những tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của con người. Nó gắn liền với cuộc sống sinh hoạt của nhân dân và phục vụ nhân dân. Song song với cuộc sống của con người, nó đã tồn tại qua mấy nghìn năm lịch sử đến nay.
VÕ CÔNG LIÊM
Bất cứ là văn, thơ hay biên khảo, ký sự… nói chung là viết.
HỒ THẾ HÀ
Lục bát là thể thơ đặc trưng thể hiện bản sắc và tâm hồn dân tộc Việt. Nó trở thành tình cảm, tâm thức sáng tạo và tiếp nhận của nhân dân từ ngàn đời nay, nó trở thành hữu thức và “vô thức tập thể” trong sinh hoạt tinh thần và sinh hoạt vật chất của toàn dân.
TRẦN HỮU SƠN
Đạo Mẫu là hình thức tôn giáo quan trọng ở Việt Nam. Hiện nay, đạo Mẫu đang có bước “chuyển mình” và phát triển mạnh mẽ cả về thiết chế và đối tượng tham gia. Vì vậy, đạo Mẫu đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học.
ĐỖ LAI THÚY
Cuốn sách của giáo sư Trần Đức Thảo đề cập đến nhiều vấn đề, rộng và sâu. Bài báo này chỉ nói đến một luận điểm mấu chốt của ông, bản chất con người và những ngẫm nghĩ gợi ra từ đó, trong sự đối chiếu với văn học gần đây.
TRẦN HOÀI ANH
MAI LIÊN GIANG
(Qua công trình Phản ánh nghệ thuật trong mỹ học của Lukács György của Trương Đăng Dung)
LƯỜNG TÚ TUẤN
(Tặng Yến Linh và Thái Hạo)
“Hình thức nghệ thuật nếu được hiểu đúng thì nó không tạo hình thức cho một nội dung đã có sẵn và được tìm thấy, mà là cái hình thức cho phép lần đầu tiên tìm thấy và nhận ra nội dung” (M. Bakhtin).
ĐỖ QUYÊN
(Nhân đọc “Cái vú thừa” - tập truyện của McAmmond Nguyen Thi Tu, Nxb. Hội Nhà văn 2018)
PHẠM QUYÊN CHI
Tâm lí học cổ điển đã xây dựng nên sơ đồ quy nạp của quá trình hình thành các đơn vị cơ bản của tư duy - và khái niệm duy lí gắn liền với từ.
YẾN THANH
“Hoa dại như là niềm ân nghĩa. Nhìn hoa nghiệm ra sự hiện hữu của những gì tưởng đã tan loãng hư vô”
[Nhụy Nguyên]
JOSEPH HILLIS MILLER
Không phải ngẫu nhiên khi cho rằng quan niệm về cái kết ở trong truyện rất khó để xác định rõ ràng, cho dù là “về mặt lý thuyết”, hay với một cuốn tiểu thuyết nhất định, hoặc với các tiểu thuyết ở một thời kỳ nhất định. Quan niệm về cái kết ở trong truyện vốn dĩ là “không thể giải quyết được.” (undecidable).
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Tôi đọc trường khúc Mẹ Về Biển Đông của Du Tử Lê lần đầu giữa một mùa hè khô hạn, mặt đất nắng cháy nứt nẻ thoảng mùi hoa hồng dại, thứ cây mọc nhiều ở Alberta.
HỒ TIỂU NGỌC
Trong bầu không khí dân chủ tối đa và nhận thức tối đa của con người thời hậu chiến, nền thơ Việt Nam, trong đó có thơ nữ lại nhanh chóng hòa nhập và tạo ra những góc nhìn đa dạng về cuộc sống.
MAI AN NGUYỄN ANH TUẤN
Bài thơ chữ Hán Điệp tử thư trung (Con bướm chết trong sách) được xếp ở sát cuối phần Làm quan ở Bắc hà (1802 - 1804), trong Thanh Hiên thi tập(1).
TÔN NỮ DẠ NGUYÊN
(Khái lược về liên văn bản trong tác phẩm văn học)
NGUYỄN THỊ THÚY HẠNH
Nhà văn Diêm Liên Khoa đã từng thử sức ở nhiều thể loại văn học khác nhau: tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa, tùy bút, tản văn… nhưng tiểu thuyết vẫn là địa hạt mà ngòi bút ông bén rễ sâu nhất và đạt được nhiều thành tựu rực rỡ.
NGUYỄN VĂN HÙNG
(Đọc Thơ Việt Nam hiện đại - Thi luận và Chân dung của Hồ Thế Hà)