Hoàng Phủ Ngọc Tường (trái) và Nguyễn Trọng Tạo năm 1986 - Ảnh: TL
Dù trong hoàn cảnh đất nước bị nô lệ, và dù những hạn chế hiển nhiên của chúng, tôi cho rằng những nhà sư phạm thời đó đã soạn ra những sách "giáo khoa thư" không đến nỗi tồi. Những bài vở trong đó thí dụ như "Ai bảo chăn trâu là khổ", như "Chốn quê hương đẹp hơn cả", từ bao giờ đã ràng buộc tâm hồn tôi với cái mảnh đất nguồn cội ấy của mỗi người Việt Nam, gọi là "làng", dù cho đến lúc đó, tôi chưa bao giờ nhìn thấy làng tôi cả. Cũng như thế, những bài khác đã dạy cho tôi, bằng một giọng mộc mạc nhưng gây ấn tượng mạnh về lòng biết ơn cha mẹ và thầy giáo, về tình bạn, v.v... Riêng bài ca dao "Con cò mà đi ăn đêm" thì ở mỗi độ tuổi của đời người tôi lại cảm nhận một cái hay riêng của nó, và cho đến bây giờ, tôi cảm thấy rằng tôi vẫn chưa đi thấu tận cùng vẻ đẹp của bài học thuộc lòng thuở nhỏ ấy. Đọc bài thơ "Quê Hương" của Giang Nam, tôi nhận ra rằng những trang sách thời thơ ấu xa xôi kia vẫn tiếp lục giữ sức nuôi dưỡng lâu dài của nó, để cuối cùng phát triển thành tình cảm lớn của nhà thơ. Nói điều này, tôi chỉ muốn lưu ý thêm một chút, về tầm quan trọng của việc chọn và soạn các sách giáo khoa dùng ở các trường phổ thông cơ sở, đặc biệt là cho học sinh cấp I. Bởi vì những cuốn sách "Tiếng Việt" đó, không phải chỉ là tập đọc, chính tả và ngữ pháp, mà còn đưa các em ngay từ phút đầu, tiếp cận với cái mà sau này chúng sẽ hiểu là "văn học". Cách đây ba năm, cháu bé của tôi vào lớp Một, và tôi thường giúp cháu trên cuốn sách học vần của cháu. Tôi nhớ có một bài học đại để như thế này: "Bé có ba vỏ hến, chú Tư cho Bé sáu vỏ hến, vậy Bé có chín vỏ hến". Bài học có tranh minh họa hẳn hoi, ôi, những chiếc vỏ hến! Tôi không hiểu chú Tư và những vỏ hến kia sẽ giúp ích gì cho tâm hồn của các cháu, trong khi một năm trước đó, ở mẫu giáo, các cháu đã biết dùng màu để vẽ những bông hoa. May mà những bài học vô lý kiểu ấy đã bị loại bỏ khỏi những sách giáo khoa mới. "Tôi đã học văn như thế nào?" Theo tôi, câu trả lời đúng cho mọi người sẽ là: "Tôi đã học văn trước tiên từ chính bài học chữ cái vỡ lòng của tôi". |
LTS: Ngày 19/12/2007, Ban Bí thư Trung ương Đảng quyết định thành lập Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật. Sau một thời gian chuẩn bị chu đáo, Hội đã có buổi ra mắt nhân dịp gặp mặt thân mật đại biểu cơ quan báo chí toàn quốc vào ngày 20/5/2008.Chúng tôi xin lược trích bài phát biểu của đồng chí Phùng Hữu Phú - Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương.
Thuyết phân tâm học của S.Freud và về sau là C.G.Jung và các người kế nghiệp đã có ảnh hưởng sâu rộng đến tư tưởng của con người hiện đại, bao gồm cả nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực văn học nghệ thuật. Tuy vậy, ở ta, do nhiều lý do chủ quan và khách quan, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về sự ảnh hưởng của phân tâm học trong văn học - nhất là văn học hiện đại Việt .
Trong thập niên 1970 danh từ thi pháp (poétique) trở thành thông dụng, thi pháp học dần dần trở thành một khoa học phổ biến, dính liền với ngành ngữ học, trong một khung cảnh học thuật rộng lớn hơn, là khoa ký hiệu học.
Bản chất nhận thức của văn học đã được biết đến từ lâu. Hễ nói đến văn học là người ta không quên nói tới các chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ.
Mới đây, trong khi tìm tài liệu ở Thư viện quốc gia, tôi tình cờ đọc bài báo thuộc thể loại văn hóa - giáo dục: “Giáo sư Vũ Khiêu - Học chữ để làm người” trên chuyên mục Trò chuyện cuối tháng báo An ninh Thế giới số tháng 9/2005, do Hồng Thanh Quang thực hiện.
(Muốn khẳng định cuộc đời của mình không ai không thêm vào đó chút ít huyền thoại) - M. Jourhandeau -
Văn học, từ xưa đến nay là sự khám phá không ngừng nghỉ về con người, đặc biệt về tâm hồn con người. Khám phá đó giúp cho con người hiểu rõ về bản thân mình hơn, cũng có nghĩa là con người sẽ biết sống tốt đẹp hơn, chất lượng sống do đó sẽ được nâng cao.
Một phương diện giúp khẳng định phong cách của bất cứ nhà văn nào, mà chúng ta không thể bỏ qua, đó là nghiên cứu yếu tố ngôn từ - chất liệu cơ bản để sáng tạo nên tác phẩm văn chương mà nhà văn đã vận dụng một cách nghệ thuật.
Trong lời Nhỏ to... cuối sách Thi nhân Việt (1942), Hoài Thanh - Hoài Chân viết: “Tôi đã đọc một vạn bài thơ và trong số ấy có non một vạn bài dở. Nếu làm xong quyển sách này, mà không chê chán vì thơ, ấy là điều tôi rất mong mỏi”.
Gần đây, đọc một vài truyện ngắn trên tạp chí Sông Hương, tôi vô cùng cảm động. Trước số phận của các nhân vật, tôi muốn nói lên những suy nghĩ của mình và chỉ mong được coi đây là lời trò chuyện của người được "nhận và cho":
Ông Eđuar Điujacđen là một nhà thơ có tài và có thể nói là được hâm mộ trong số các nhà thơ thuộc thế hệ già - người vẫn giữ được tình cảm và sự khâm phục cuồng nhiệt của lớp trẻ, đã mở đầu một cuộc thảo luận về thơ.
Việc mở rộng phong trào giải phóng tư tưởng trên văn đàn thời kỳ mới, lãnh vực phê bình và lý luận văn nghệ đã xuất hiện cục diện vô cùng sống động.
"Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động" (Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trường ĐHTH TP.HCM, 1995, trang 19).
Phê bình văn học là giải minh cho văn chương. Văn chương hay hoặc dở, giản đơn hay phức tạp, nó được thiết lập trên thi pháp này hay thi pháp khác, thể loại này hay thể loại khác, thời này hay thời khác v.v... đều phải được làm sáng tỏ bằng những lập luận khoa học chứ không phải bằng cảm tính của người phê bình.
LTS: Sau khi Sông Hương đăng bài “Khủng hoảng ngay trong nhận thức và niềm tin đi tìm lối thoát cuộc khủng hoảng văn học” của nhà văn Nguyễn Dương Côn, chúng tôi nhận được ý kiến “phản biện” của 2 nhà văn Phương Lựu và Trần Thanh Đạm.
LTS: Có nhiều cách hiểu về câu thơ trên. Y kiến của cụ Thanh Huy - Cử nhân Văn khoa Việt Hán, sinh 1916 tại Huế, cũng là một ý có thể tham khảo đối với những ai quan tâm Truyện Kiều, để hiểu thêm và đi đến kết luận về cách tính thước tấc của người xưa.
SH
Từ thơ ca truyền thống đến Thơ mới là một sự đột phá vĩ đại trong quan điểm thẩm mỹ của thơ ca. Chính sự cách tân trong quan niệm về cái đẹp này đã làm một "cú hích" quan trọng cho tiến trình phát triển của thơ ca Việt . Nó đã giúp thơ ca dân tộc nhanh chóng phát triển theo con đường hiện đại hóa. Và từ đây, thơ ca Việt có thể hội nhập vào thơ ca nhân loại.
Trong truyền thống thơ ca Nhật Bản, thơ haiku giữ một vị trí rất quan trọng. Nó là một viên ngọc quý giá và là một phần tài sản tinh thần trong kho tàng văn học Nhật Bản.
(Trao đổi với nhà lý luận Nguyễn Dương Côn)
"Thượng đế dằn vặt tôi suốt đời" (Đôxtôiepxki)