Kế Môn (Điền Môn, Phong Điền, TT- Huế) là quê hương của hàng ngàn người giàu có trên cả nước và thế giới. Bởi là quê quán của nhiều người giàu nên Kế Môn sở hữu lắm chuyện đặc biệt.
Những người Kế Môn rời quê đã đóng góp xây đình làng Kế Môn to nhất tỉnh Thừa Thiên - Huế (ảnh tư liệu của làng).
Kế Môn là làng nông nghiệp với hơn 600 hộ dân nhưng có chưa đến 50 hộ nghèo. Nói như ông Phạm Do - Chủ tịch UBND xã Điền Môn, đây là những người không thể không nghèo, vì đã già cả lại neo đơn, tàn tật... Còn lại đều có cuộc sống thong thả.
Thư viện làng Kế Môn có lẽ là thư viện làng đầu tiên và lớn nhất không chỉ của Thừa Thiên - Huế, với 4.000 đầu sách, mở cửa thường xuyên cho dân nhiều làng đến học tập, nghiên cứu. Trung tâm Thương mại Kế Môn tất nhiên là cái chợ làng to nhất tỉnh với diện tích 2.000m2, hơn 100 gian hàng, được xây dựng với kinh phí 8 tỷ đồng...
Ơn một lần, hưởng nhiều đời
Cái làng có nhiều cái nhất này thuở xa xưa vốn nghèo. Nơi đây đất ruộng thì ít, đất cát hoang hoá thì nhiều. Đến như hiện nay, bằng nhiều biện pháp cải tạo thì trong 700ha đất tự nhiên vẫn còn đến 300ha đất hoang hoá chỉ dành để chôn người chết. Với đất đai như thế, ngày hôm nay, dẫu có áp dụng tiến bộ kỹ thuật thì nông dân vẫn nghèo, huống là ngày xưa...
Theo sử sách, làng được thành lập vào đầu thế kỷ XIV, thời Vua Trần Anh Tông. Qua nhiều trăm năm, dân Kế Môn chủ yếu sống bằng nghề nông. Năm 1789, sau khi đại thắng quân Thanh, Vua Quang Trung ra chiếu cầu hiền, cầu tài. Ông Cao Đình Độ (1735-1810) quê làng Cẩm Tú, huyện Cẩm Thuỷ, Thanh Hoá mới đưa gia đình vào Phú Xuân để xin làm nghề kim hoàn cho hoàng cung (cả thời Quang Trung và sau này là nhà Nguyễn Gia Long, sử sách gọi là Ngân Tượng).
Khi đò dọc chở gia đình ông theo sông Ô Lâu vào Phú Xuân, qua khúc Bàu Ngược (làng Kế Môn) thì bị chìm. Hai ông Hoàng Công Bàn và Trần Duy Lợi (dân làng Kế Môn) đang gặt lúa gần đó nhảy xuống sông cứu sống gia đình ông Độ. Làng Kế Môn đã cưu mang gia đình người bị nạn một thời gian. Để đền ơn cứu mạng, ông Độ truyền nghề kim hoàn lại cho dân làng Kế Môn, từ đây mở ra một nghề kiếm sống mới của dân miền Nam thời trước.
Cũng giống như ông Độ - phải rời bỏ làng quê của mình để đến kinh thành mưu sinh, dân làng Kế Môn bất kỳ ai, đã biết nghề kim hoàn đều phải rời làng ra đi. Người ta không thể kiếm sống bằng cái nghề xa xỉ ở một làng quê nghèo khó, heo hút. Hai trăm năm qua, hàng ngàn người làng Kế Môn đã rời làng ra đi và có mặt, trước tiên là ở kinh thành Huế (để làm trong Cơ vệ Ngân Tượng của triều đình), sau đó là ở hầu hết các đô thị, thị tứ, chợ lớn của cả nước, và sau này là vươn ra thế giới.
Theo ông Bùi Giây - Trưởng ban Điều hành làng văn hoá Kế Môn, TP.Huế là nơi có dân làm vàng Kế Môn đông nhất, sau đó đến Đà Nẵng (khoảng 300 hộ), Đà Lạt (250 hộ), Buôn Ma Thuột (200 hộ), TP.HCM (hơn 100 hộ)... Còn tại các nước, dân Kế Môn ở Mỹ nhiều nhất, từ TP. Oakland (California) đến Portland (Origon), Houston (Texas)..., chỗ nào có cộng đồng người Việt là ở đó có tiệm vàng của người Kế Môn. Riêng tiểu bang Texas có đến 40 tiệm vàng của dân Kế Môn.
“Do giỏi nghề, trọng chữ tín, nên phần nhiều người Kế Môn thành đạt trong nghề kim hoàn, tiệm vàng của họ đông khách hàng, trở thành nơi cung cấp giá chuẩn về vàng cho mỗi địa phương” - Chủ tịch xã Phạm Do cho biết.
Việc trả ơn của ông Độ ngày xưa đã đem lại sự giàu có cho hàng ngàn người dân Kế Môn suốt hơn 200 năm qua. Và đến lượt mình, những người con thành đạt Kế Môn ra đi lại quay về trả ơn làng.
Sống ra đi, chết quay về
Thư viện làng Kế Môn nói ở trên là do ông Hồ Huệ (người Kế Môn, chủ một tiệm vàng ở TP.HCM) gửi tiền về xây dựng cách đây 10 năm. Thư viện này nằm ngay trong nhà cháu của ông, và người cháu này được ông chu cấp chỉ để hàng ngày mở cửa thư viện đón mọi người vào đọc.
Ông Hồ Huệ cũng là người đứng ra quyên góp các chủ tiệm vàng Kế Môn ở TP.HCM gửi 8 tỷ đồng về xây chợ Kế Môn - chợ làng to nhất nước dưới cái tên Trung tâm Thương mại Kế Môn. Vào năm 1992, ông Nguyễn Thanh Côn (dân Kế Môn, làm vàng bên Mỹ) gửi về gần 500 triệu đồng (hơn 100 lạng vàng) để đổ bê tông con đường dài 2,4km, mà dân làng gọi là đường Nguyễn Thanh Côn.
Người làng Kế Môn đã không quên ơn sinh thành của làng, dù trôi dạt đi đâu, hàng năm họ vẫn quay về làng, để tảo mộ, thắp hương cho người thân, để hội tộc, để giúp đỡ bà con trong làng.
Chủ tịch Phạm Do cho biết: Khó thống kê hết những đóng góp của người làng Kế Môn ra đi, nào là sửa chữa nghĩa trang liệt sĩ xã, xây nhà cho hộ nghèo, lập quỹ khuyến học, giúp đỡ người khuyết tật...
Người Kế Môn đã ra đi cũng đặc biệt quan tâm đến nhà thờ họ của mình. Đường Nguyễn Thanh Côn là con đường đặc biệt nhất của cả nước vì nó như là con phố của nhà thờ họ. Hàng loạt những nhà thờ họ được xây dựng khang trang, thậm chí là nguy nga, nằm san sát trên con phố này. Theo ông Bùi Giây, làng có 16 tộc họ và tất nhiên có 16 nhà thờ họ khang trang, chủ yếu nằm ở “phố” Nguyễn Thanh Côn.
Điều khiến những người phương xa đến như chúng tôi suy nghĩ nhiều đó là tập quán đưa người chết về làng an táng của dân làng Kế Môn. Bất kể khi sống ở đâu, TP.HCM hay Hà Nội, Mỹ hay Pháp..., người chết sẽ được con cháu đưa về rú cát ở sau làng Kế Môn an táng, bất chấp tốn kém thế nào, từ vài trăm triệu đồng đến vài tỷ đồng (nếu đưa từ nước ngoài về). Có nhiều người ở xa, thấy sức đã yếu, về quê kêu thợ làm lăng mộ trước cho mình.
Ở Kế Môn hiện nay có đến vài chục lăng mộ chưa có người nằm như vậy, cái nào cũng nguy nga, tráng lệ. Trong đó, kỳ vĩ nhất là lăng của ông Đặng Hữu Phụng (đang ở Đà Nẵng) và ông Hoàng Ngọc Tuệ (đang ở Mỹ). Chúng tôi đến thăm lăng ông Hoàng Ngọc Tuệ, thật choáng ngợp với sự bề thế, uy nguy, chạm rồng trổ phượng tinh xảo... Ông Bùi Giây nói: “Lăng ông Tuệ làm bao nhiêu tỷ đồng, tôi không biết. Chỉ biết riêng 4 cây cột trước lăng (mỗi cây cao 12m) đã tốn 600 triệu đồng”.
Sống thì đóng góp cho quê, chết thì về quê, đó cũng là cách không quên nguồn cội của người Kế Môn. Ngày xưa, ông Độ không trả ơn người cứu mạng bằng tiền, bằng của mà bằng cái nghề để vinh danh cả làng. Thấm nhuần đạo lý đó, người làng Kế Môn đã không quên ơn sinh thành của làng, dù trôi dạt đi đâu, hàng năm họ vẫn quay về làng, để tảo mộ, thắp hương cho người thân, để hội tộc, để giúp đỡ bà con trong làng.
Và để tiện cho việc ăn ở trong những ngày về làng làm những việc kể trên, người Kế Môn đi xa về quê kiếm đất xây nhà. Trong đó có những nhà xây biệt thự hết mấy tỷ đồng. Nhà to, đẹp vậy nhưng mỗi năm chỉ mở cửa vài ngày. Ông Phạm Do nói: Có khoảng 50 cái nhà xây lên chỉ để mở cửa mỗi năm vài ngày như vậy.
Một chủ tiệm vàng ở Đà Nẵng có nhà biệt thự ở Kế Môn tâm sự: Không xây nhà ở quê thì chúng tôi mỗi khi về quê có thể ở khách sạn tại TP.Huế, tính ra rẻ hơn nhiều so với làm nhà để rồi đóng cửa. Nhưng dù tốn kém, chúng tôi vẫn làm nhà, để mỗi năm dành ra ít ngày đưa con cháu về ở trong làng, cho chúng nó cảm nhận không khí linh thiêng của làng quê, qua đó nhắc nhở chúng không quên nguồn cội.
Có thể nói Kế Môn là làng nông thôn có lao động ly hương sớm nhất ở Việt Nam - hơn 200 năm. Tuy nhiên, không như nhiều làng quê có người ly hương khác, Kế Môn vẫn giữ được nếp quê, có những ứng xử riêng khiến ta an lòng. Ở nơi đây, con người ra đi để quay về tốt đẹp hơn, no ấm hơn. Ở nơi đây, dù giàu hay nghèo, dù ở lại hay ra đi, ai cũng thủy chung với làng, vẫn muốn cuối đời về trong vòng tay thiên thu của mảnh đất làng.
Theo Phước Lê - Ngọc Vũ (Dân Việt)
Chiều ngày 29/3, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, Tạp chí Sông Hương phối hợp tổ chức buổi giới thiệu tác phẩm “Nước chảy qua cẩu”, “Ngày tháng thênh thang” và “Tâm tình với Trịnh Công Sơn” của nhà văn Bửu Ý, diễn ra tại Trung tâm văn hóa Phương Nam, số 15 Lê Lợi, TP Huế.
Tối ngày 26/3, tại Nghinh Lương Đình (TP Huế), UBND tỉnh Thừa Thiên-Huế, Sở Tài nguyên & Môi trường phối hợp với Quỹ quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (WWF) tổ chức các hoạt động hưởng ứng Giờ trái đất 2011 với chủ đề “Hát cho hành tinh mãi xanh”.
Chiều ngày 23/3/2011, tại Văn phòng UBND tỉnh, Hội đồng xét phong tặng Nghệ sỹ nhân dân, nghệ sỹ ưu tú tỉnh Thừa Thiên Huế (thành lập theo Quyết định số 545/QĐ-UBND ngày 8/3/2011 của Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh) đã tổ chức cuộc họp để xét duyệt các hồ sơ đề nghị phong tặng danh hiệu NSƯT, NSND do đồng chí Ngô Hòa - Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh, Chủ tịch Hội đồng chủ trì.
Nhằm chia sẻ tình cảm trước đau thương mất mát của người dân và đất nước Nhật Bản do trận động đất - sóng thần gây ra vào đầu tháng 3/2011; vừa qua, vào ngày 17/3, Ban Thường vụ Liên hiệp các Hội VHNT Thừa Thiên Huế tổ chức cuộc vận động sáng tác Văn học Nghê thuật hướng về thiên tai với chủ đề “ Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản”.
Sáng ngày 22/3, Thư viên Tổng hợp Thừa Thiên Huế, Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh phối hợp tổ chức triển lãm tài liệu Hán - Nôm và tọa đàm khoa học “Bảo tồn - số hóa di sản Hán Nôm”, diễn ra tại số 29A Lê Quý Đôn, TP Huế.
Tối ngày 20/3 (ngày 16/2 năm Tân Mão), UBND tỉnh Thừa thiên Huế, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã tổ chức lễ tế Xã Tắc năm 2010 tại đàn Xã Tắc, phường Thuận Hòa, thành phố Huế.
Chiều ngày 17/3, tại kỳ họp lần thứ 16, Hội đồng nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế khóa V đã chính thức thông qua đã thông qua Đề án đặt tên đường phố của thành phố Huế đợt VI, trong đợt này tên của cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đã được đặt cho con đường mới bên sông Hương, thuộc phường Phú Cát, thành phố Huế.
Sáng ngày 15/3, tại trụ sở Liên hiệp các Hội VHNT tỉnh, Hội Nhiếp ảnh Thừa Thiên Huế đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 58 năm ngày truyền thống Nhiếp ảnh Việt Nam (15/3/ 1953 -15/3/2011) và phát động cuộc thi ảnh nghệ thuật “Huế - những góc nhìn mới”.
Sáng ngày 10/3, Nhà văn, GS. TS. Masatsugu Ono đã có buổi thuyết trình về Văn học đương đại Nhật Bản tại Trung tâm Văn hóa Phương Nam, số 15 Lê Lợi, Huế; chương trình do Liên hiệp các Hội VHNT, Hội Nhà văn tỉnh Thừa Thiên Huế, Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam phối hợp tổ chức.
Chiều ngày 8/3, tại số 4 Hoàng Hoa Thám Huế, Liên hiệp các Hội VHNT, Hội Mỹ thuật Thừa Thiên Thiên Huế, Phòng Văn hóa Thông tin thành phố Huế phối hợp tổ chức khai mạc triển lãm “Tặng phẩm tháng Ba” nhân kỷ niệm Ngày Quốc tế Phụ nữ.
Chiều ngày 7/3, tại 26 Lê Lợi, Huế, Liên hiệp các Hội VHNT tỉnh phối hợp với Hội LH Phụ nữ, Hội Mỹ thuật Thừa Thiên Huế, Trường Đại học Mỹ thuật Huế tổ chức khai mạc triển lãm “Tranh các nữ tác giả” nhân kỷ niệm Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3.
Theo thông tin kêu gọi các doanh nghiệp tham gia tài trợ cho Lễ tế Xã Tắc năm 2011 của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, theo đó Lễ tế Xã Tắc năm nay sẽ được tổ chức vào lúc 18h 30 đến 21h30 ngày Giáp Tuất 16/2 âm lịch (nhằm ngày 20/3).
Nhân chuyến thăm và làm việc với Hội Nhà văn Việt Nam, chiều ngày 25/2, đoàn nhà văn Nga đã đến thăm Tạp chí Sông Hương và gặp mặt thân mật với các nhà văn Thừa Thiên Huế.
Chiều ngày 18/02, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức buổi họp báo để công bố quy định, thể lệ Giải thưởng Cố đô về Khoa học Công nghệ (KH&CN) tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ II do đồng chi Phan Ngọc Thọ - Phó Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì.
Nhân ngày thơ Việt Nam lần thứ IX, tối ngày 17/2 (Rằm tháng Giêng năm Tân Mão), tại lầu Tứ Phương Vô Sự - Đại Nội, Huế, đã diễn ra chương trình Thơ Nguyên Tiêu với chủ đề Đồng vọng thi ca.
Trong khuôn khổ các chương trình hưởng ứng Ngày thơ Việt Nam tại Thừa Thiên Huế, tối ngày 16/2, tại Trung tâm Văn hóa - Thông tin - Thể thao thị xã Hương Thủy, Câu lạc bộ thơ Hương Thủy đã tổ chức chương trình thơ với chủ đề “ Đêm thơ Hương Thủy”.
Trong khuôn khổ các chương trình hưởng ứng Ngày Thơ Việt Nam lần thứ IX, sáng ngày 16/02, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật và Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế đã tổ chức chuyến đi viếng mộ các văn nghệ sĩ đã khuất.
Hưởng ứng Ngày thơ Việt Nam tại Thừa Thiên Huế, tối ngày 15/2, tại Hội trường UBND huyện Hương Trà đã diễn ra đêm thơ “Sông Bồ một miền thơ”.
Nằm trong khuôn khổ chương trình Ngày thơ Việt Nam tại Thừa Thiên Huế - Nguyên Tiêu Tân Mão 2011, chiều ngày 14/2, tại 15 Lê Lợi, Huế, Liên hiệp các Hội VHNT tỉnh phối hợp với Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán tổ chức buổi tọa đàm và trao đổi với diễn giả - nhà văn hóa Cao Huy Thuần về chủ đề “ Hạnh phúc trong thơ”
Sáng ngày 14/02 (12 tháng Giêng), tại đình làng văn hóa Thai Dương, thị trấn Thuận An (Phú Vang) đã diễn ra Lễ hội truyền thống Cầu ngư 2011.