KATHERINE MANSFIELD
Ảnh: internet
Những bức hình là tác phẩm của Katherine Mansfield (1888 - 1923), một trong những tác giả truyện ngắn nổi bật thế kỷ hai mươi. Nhân vật của truyện, cô Moss, một ca sĩ đã qua thời đỉnh cao, giống như nhiều nhân vật khác của Katherine, và “giống như chúng ta, là một bí ẩn với chính mình”, luôn “bắt gặp mình” làm những chuyện “không dự tính trước”, dưới áp lực của thôi thúc mạnh mẽ nhất của con người - sống sót. Nhưng, hơn hết, nói như Emily Perkins, trong truyện ngắn của Katherine, “chúng ta thực ra không bị lôi cuốn bởi nhân vật; chúng ta bị lôi cuốn bởi những tiếng nói tạo nên họ.” Đoàn Huyền dịch và giới thiệu |
Những bức hình
Tám giờ sáng. Cô Ada Moss nằm trên khung giường thép tấm đen, nhìn chòng chọc lên trần nhà. Phòng cô, trên gác thượng phía sau tòa nhà khu Bloomsbury, dậy mùi bồ hóng, phấn phủ và gói khoai chiên cô mang về cho bữa tối đêm hôm trước.
“Trời ạ,” cô nghĩ, “Mình lạnh. Mình băn khoăn là tại sao bây giờ mình luôn thức giấc lạnh cóng vào buổi sáng. Đầu gối mình, bàn chân và lưng mình - nhất là lưng; nó như phiến băng. Và người mình ngày xưa luôn ấm áp là thế. Không phải xưa mình còm nhom - mình vẫn mập thế. Không, mình lạnh là vì mình không được ăn một bữa tối nóng sốt ngon lành.”
Một cảnh huy hoàng của những bữa tối Nóng sốt Ngon lành lướt qua trần nhà, kèm theo một chai bia đen…
“Dù là mình sẽ dậy bây giờ,” cô nghĩ, “và ăn một bữa sáng thật sự…”. Một cảnh tượng huy hoàng của những bữa sáng Thật sự theo sau những bữa tối lướt qua trần nhà, được dẫn đường bởi một miếng giăm bông lớn, trắng nõn, chưa xắt. Cô Moss rùng mình và biến mất dưới lớp chăn gối. Đột nhiên, bà chủ nhà thình lình bước vào.
“Có thư gửi cho cô, cô Moss.”
“Ồ,” cô Moss nói, quá mức thân thiện, “cảm ơn bà nhiều lắm, bà Pine. Bà tốt quá, chắc là làm phiền bà.”
“Không phiền chút nào,” bà chủ nhà đáp. “Tôi nghĩ có lẽ nó là bức thư cô đang đợi.”
“Ồ,” cô Moss tươi tỉnh trả lời, “vâng, có lẽ thế.” Cô nghiêng đầu và mỉm cười mơ hồ nhìn lá thư. “Tôi không phải ngạc nhiên.”
Bà chủ nhà tròn xoe mắt. “Ồ, tôi phải, cô Moss,” bà ấy nói, “cảm thấy thế. Và tôi phiền cô bóc nó, nếu cô bằng lòng. Nhiều bà ở vị trí của tôi sẽ làm thế cho cô và có quyền làm thế. Vì chuyện không thể cứ thế này được, cô Moss, không, thực sự không thể. Nào là vì, không trừ tuần nào, đầu tiên là cô nhận, rồi thì là vì cô không nhận được thư, rồi thì là vì một lá thư khác bị thất lạc hoặc ông bầu khác xuống tận Brighton nhưng chắc chắn sẽ quay lại vào thứ ba - tôi hơi phát ốm và mệt mỏi và sẽ không chịu đựng nữa. Tại sao tôi phải thế, cô Moss, tôi hỏi cô, vào lúc thế này, khi giá cả tăng vù vù và thằng bé con tội nghiệp của tôi đang ở Pháp? Chị Eliza tôi mới nói với tôi hôm qua - ‘Minnie,’ chị ấy bảo, ‘em quá mềm lòng. Em lẽ ra đã có thể cho thuê cái phòng ấy hết lần này đến lần khác,’ chị nói thế. ‘Và nếu người ta không lo liệu lấy vào những lúc như thế này, thì ai sẽ làm,’ chị tôi nói. ‘Cô ấy có thể có bằng Cao Đẳng và hát trong những buổi hòa nhạc ở khu West End,” chị tôi bảo, “nhưng nếu Lizzie của em nói thì điều gì là thật,” chị nói, “và cô ta đang giặt mấy lọn tóc giả của mình và phơi trên giá treo khăn tắm, thì dễ dàng biết là thật hay giả rồi đấy. Và đã đến lúc em chấm dứt chuyện này, chị tôi bảo.”
![]() |
Minh họa: TÔ TRẦN BÍCH THÚY |
Cô Moss không tỏ ra đang nghe bà chủ nhà nói. Cô ngồi thẳng trên giường, bóc thư và đọc:
“Thưa bà,
Đã nhận được thư bà. Và hiện không sản xuất gì, nhưng sẽ lưu ảnh vào hồ sơ để tham khảo trong tương lai.
Bạn chân thành của bà,
Hãng phim Backwash.”
Lá thư này dường như cho cô sự hài lòng kỳ lạ; cô đọc hết nó hai lần trước khi trả lời bà chủ nhà.
“À, bà Pine, tôi nghĩ bà sẽ lấy làm tiếc vì những gì bà nói. Lá thư này tới từ một ông bầu đề nghị tôi mặc váy dạ hội đến đó vào mười giờ sáng thứ bảy tới.”
Nhưng bà chủ nhà quá nhanh so với cô. Bà ta chộp lấy, giữ chặt lá thư.
“Ồ, nó đây! Nó đây thực rồi!” Bà kêu lên.
“Trả tôi lá thư. Trả tôi ngay lập tức, bà, mụ đàn bà xấu xa,” cô Moss la lên, không thể ra khỏi giường vì váy ngủ của cô bị rách ở lưng. “Trả lá thư của tôi đây.” Bà chủ nhà bắt đầu từ từ quay lưng ra khỏi phòng, ghì chặt lá thư vào vạt áo cài khuy.
“Thế việc đã đến nước này, phải không?” bà ấy nói, “ồ, cô Moss, nếu tôi không nhận được tiền nhà vào tám giờ tối này, chúng ta sẽ biết ai là mụ đàn bà xấu xa - thế thôi.” Đến đây bà gật đầu một cách bí ẩn. “Và tôi sẽ giữ lá thư này.” Chỗ này bà lên giọng. “Nó sẽ là chút xíu bằng chứng!” Và tại đây bà hạ giọng, buồn thảm, “thưa quý cô.”
Cửa đóng sập lại, cô Moss ở lại một mình. Cô tung chăn gối, và ngồi cạnh giường, giận dữ và run rẩy, cô nhìn chăm chăm vào đôi chân béo trắng có những mấu gân xanh to đùng.
“Đồ con gián! Mụ đúng thế! Mụ ta đúng là đồ con gián!”, cô Moss nói. “Mình có thể kiện mụ ấy vì dám vồ lấy bức thư của mình - Mình chắc chắn mình có thể.” Vẫn mặc váy ngủ cô bắt đầu lê lết váy áo.
“Ừ thì, dù là mình có thể chỉ trả tiền mụ ấy, mình sẽ mắng để mụ không quên được. Mình đích thị sẽ nói thẳng vào mặt mụ.” Cô tới tủ để lấy ghim băng, và nhìn vào gương cô nở một nụ cười mơ hồ và lắc đầu.
“Đấy, cô bạn già,” cô lầu bầu, “mày thực sự khó khăn rồi đấy.” Nhưng người trong gương làm mặt xấu với cô.
“Đồ ngốc nhà ngươi,” cô Moss gắt gỏng. “Giờ khóc có ích gì: chỉ làm mũi đỏ ửng lên thôi. Không, mặc quần áo vào, ra ngoài và thử vận may - là việc mày phải làm.”
Cô lấy ví trang điểm trên cột giường, cắm đầu nhìn vào, giũ, lộn trái nó.
“Mình sẽ dùng một tách trà ngon ở chỗ A B C nào đó cho khuây trước khi đi đâu,” cô quyết định. “Mình có một đồng và ba xu - đúng, chính xác một đồng ba xu.”
Mười phút sau, một quý bà mập mạp trong bộ đồ vải xẹc, gài hoa giả ở ngực, đội mũ đen cài hoa păng xê tím, mang găng tay trắng, đi đôi bốt phía trên màu trắng, và khoác ví trang điểm đựng một đồng ba xu, hát khẽ bằng giọng trầm:
“Anh yêu, nhớ những ngày quạnh hiu
Trời đất bao giờ cũng đen tối cùng cực trước bình minh.”
Nhưng người trong gương làm mặt xấu với cô, cô Moss ra ngoài. Có những con cua xám đi cả chặng dài xuống phố làm tràn nước ra những bậc thang đá xám. Bằng tiếng rao kỳ lạ và tiếng lóe chóe của những cái bình cu cậu giao sữa lượn quanh một vòng. Bên ngoài Ngôi nhà Thụy Sĩ của Brittweiler cậu làm sữa bắn văng ra, và một con mèo nâu già không đuôi không biết hiện ra từ đâu, bắt đầu một cách háu đói, làm thinh uống sạch chỗ sữa bị đổ. Cảnh tượng đó làm cô Moss thấy kỳ quái khi đứng trông - một sự đắm chìm, bạn có thể nói thế.
Nhưng khi cô tới một quán A B C nào đó cô thấy cửa mở chống lên: Một người đàn ông ra vào mang những khay bánh mì, và không có ai bên trong trừ một cô bồi bàn đang làm tóc và một cô thu ngân đang mở hộp đựng tiền. Cô đứng giữa phòng nhưng không ai trong số họ để ý đến cô.
“Chàng của tớ tới nhà đêm qua,” cô bồi bàn véo von.
“Ồ, tớ bảo này - cậu sướng ghê cơ!” Cô thu ngân ríu rít.
“Ừ, phải không,” cô bồi bàn véo von. “Anh ấy mang cho tớ một chiếc ghim cài nhỏ xinh lắm cơ. Nhìn này, có in chữ ‘Dieppe.’”
Cô thu ngân chạy sang để xem và vòng tay lên cổ cô bồi bàn.
“Ồ, tớ bảo mà - cậu sướng ghê cơ.”
“Ừ, phải không,” cô bồi bàn nói. “Ồ-ồ, anh ấy là chàng trai lý tưởng. ‘Này,’ tớ bảo, ‘này, cái màu gụ này.”
“Tớ bảo mà,” cô bồi bàn ríu rít, chạy về quầy của mình và suýt đâm sầm vào cô Moss đang đi. “Cậu sướng nhất rồi!” Rồi cái người đàn ông mang bánh mì đó, lại đi vào, quẹo qua cô.
“Này cô, cho tôi một tách trà?” Cô yêu cầu.
Nhưng cô bồi bàn tiếp tục làm tóc. “Ồ,” cô véo von, “chúng tôi chưa mở cửa.” Cô quay đi và vẫy lược với cô thu ngân.
“Phải không, cưng?”
“Ồ, chưa,” cô thu ngân trả lời. Cô Moss đi ra.
“Mình sẽ tới quán Charing Cross. Ừ, mình sẽ đến đó,” cô quyết định. “Nhưng mình sẽ không uống trà. Không, mình sẽ uống một cốc cà phê. Có nhiều thuốc bổ hơn trong cà phê… Hỗn xược, mấy đứa con gái ấy! Anh chàng của cô ta tới nhà đêm qua; anh ta mang cho cô ta một cái ghim có chữ ‘Dieppe.’” Cô bắt đầu sang đường…
“Cẩn thận đấy, bà Béo; đừng có ngủ!” Ông lái taxi la lên. Cô vờ không nghe thấy.
“Không, mình sẽ không tới Charing Cross nữa.” Cô quyết định, “mình sẽ tới thẳng Kig và Kadgit. Họ mở cửa lúc chín giờ. Nếu mình tới đó sớm ông Kadgit có thể có cái gì đấy qua đường bưu điện vào buổi sáng… Tôi rất mừng là cô đến sớm thế, cô Moss. Tôi chỉ vừa nhận được thư của một ông bầu tìm một cô để đóng… Tôi nghĩ cô phù hợp với yêu cầu của ông ấy. Tôi sẽ đưa cô danh thiếp để đi gặp ông ấy. Ba bảng một tuần cộng với phí ăn ở. Nếu tôi là cô tôi sẽ nhảy chân sáo hết sức lẹ làng. May là cô đến sớm thế…”.
Nhưng không có ai ở quán của Kig và Kadgit trừ một bà giúp việc đang lau “sàn” ở hành lang.
“Chưa có ai ở đây, thưa cô,” bà lau sàn bảo.
“Ồ, ông Kadgit chưa ở đây sao?” Cô Moss nói, cố tránh xô và chổi. “Chà, tôi sẽ đợi một lát, nếu tôi có thể.”
“Cô không thể đợi trong phòng đợi, thưa cô. Tôi chưa dọn phòng ấy. Ông Kadgit không bao giờ ở đây trước mười một giờ ba mươi phút vào thứ bảy. Thỉnh thoảng ông ấy không hề tới.” Và bà lau dọn bắt đầu trườn về phía cô.
“Trời ạ - sao mình ngốc thế,” cô Moss, “mình quên là thứ bảy.”
“Để ý chân cô đấy, làm ơn, thưa cô,” bà lau dọn nói. Và cô Moss lại đi ra.
Có một đặc điểm của Beit và Bithems; nó rất sôi động. Bạn bước vào phòng đợi, vào tiếng rì rầm của cuộc trò chuyện, và có mọi người; bạn biết gần hết họ. Những người đến sớm ngồi trên ghế và những người đến muộn hơn ngồi lên lòng người đến sớm, trong khi những quý ông ngồi tựa lơ đễnh vào tường hoặc làm dáng trước những quý bà ái mộ.
“Xin chào.” Cô Moss nói, rất vui vẻ. “Bọn ta lại ở đây!”
Và ông Clayton trẻ trung, đang chơi đàn banjo trên cây gậy đi dạo của mình, líu lo: “Đang đợi ngài Robert E.Lee.”
“Ông Bithem ở đây chưa?” Cô Moss hỏi, lấy cái nùi thoa phần xỉn màu và thoa lên mũi màu phấn hồng đậm.
“Ồ, đúng rồi, cưng,” cả đám đồng thanh. “Ông ta ở đây lâu lắm rồi. Tất cả chúng tôi đợi ở đây hơn một giờ rồi.”
“Ôi trời!” Cô Moss nói, “mọi người có nghĩ đến bất cứ việc gì không?”
“À, vài công việc tới Nam Phi.” Ông Clayton trẻ trung nói. “Một trăm mười lăm đồng một tuần cho hai năm, mọi người biết đấy.”
“Ồ!” Đám đông đồng thanh. “Ông thật kỳ quái, ông Clayton. Ông ấy là một liều thuốc sao? Ông ấy buồn cười thế, cưng? Ồ, ông Clayton, ông làm tôi buồn cười ghê. Ông ấy là diễn viên hài à?”
Một cô gái ngăm đen, rầu rĩ, chạm vào tay cô Moss.
“Em vừa bỏ lỡ một công việc hấp dẫn hôm qua,” cô nói. “Sáu tuần ở các tỉnh rồi ở West End. Ông bầu nói em sẽ nhận được nó nếu như em đủ khỏe mạnh. Ông ấy nói nếu người em mập hơn, công việc ấy sẽ dành cho em.” Cô ấy nhìn chăm chăm vào cô Moss, và bông hoa hồng sậm, cáu bẩn dưới vành mũ trông, theo cách nào đó, như thể, cùng chịu cú đánh ấy với cô, và cùng nát bươm.
“Ồ, cưng, xui nhỉ,” cô Moss bảo, cố tỏ ra thờ ơ. “Nó là việc gì đấy, chị hỏi được không?”
Nhưng cô gái ngăm đen, rầu rĩ đã nhìn thấu cô và một tia giận dữ đi vào đôi mắt nặng trĩu của cô.
“Ồ, không hợp với chị, chị yêu quý ạ,” cô gái nói. “Ông ấy muốn người nào đó trẻ trung, chị biết đấy - một kiểu Tây Ban Nha da sẫm - kiểu của em, nhưng có dáng hơn, thế thôi.”
Cửa phòng trong bật mở và ông Bithem trong chiếc sơ mi, xuất hiện. Một tay ông ta giữ cánh cửa để sẵn sàng lại vụt mất, và tay kia giơ lên.
“Nhìn đây, thưa các quý cô” - rồi ông ấy ngừng lại, cười cái cười ngoác miệng nổi danh của mình trước khi nói - “và các chàng trai.i.i…” Phòng đợi cười lớn vì lời nói đùa ấy đến mức ông ta phải giơ cả hai tay lên. “Đợi ở đây sáng nay chả hay chút nào đâu. Quay lại vào thứ hai nhá. Tôi đang đợi vài yêu cầu vào thứ hai.”
Cô Moss liều lĩnh xông lên. “Ông Bithem, tôi băn khoăn không biết liệu ông có nhận được thư của…”.
“Nào, xem nào,” Ông Bithem nói, chậm rãi, nhìn chăm chú; ông ấy chỉ gặp cô Moss bốn lần một tuần, trước đây - mà được mấy tuần? “Này cô là ai nhỉ?”
“Cô Ada Moss.”
“À phải, phải rồi; tất nhiên rồi, quý cô yêu quý của tôi ạ. Vẫn chưa, quý cô yêu quý ạ. Giờ thì tôi, có một yêu cầu tìm hai mươi tám cô, vào hôm nay, nhưng phải trẻ và có thể nhảy nhót chút - hiểu không? Và tôi có một lời yêu cầu khác tìm mười sáu cô - nhưng họ phải biết chút đỉnh về khiêu vũ-trên cát. Nghe này, quý cô yêu quý ạ, tôi bận bù đầu sáng nay. Quay lại vào thứ hai hàng tuần nhé; đến sớm hơn chả tốt gì đâu.” Ông ta ngoác miệng cười với mình cô và vỗ nhẹ vào tấm lưng mũm mĩm của cô. “Trái tim thật cứng cỏi, quý cô thân yêu,” ông Bithem nói, “trái tim thật cứng cỏi!”
Ở Hãng phim North-East đám đông đi cả chặng lên cầu thang. Cô Moss thấy mình đứng cạnh một cô nàng nhỏ xinh trắng trẻo tầm ba mươi đội mũ viền đăng ten có những quả anh đào xung quanh.
“Đông nhỉ!” Cô nói. “Chuyện đặc biệt gì đang xảy ra đấy?”
“Chị không biết sao, cưng?” cô nhỏ xinh bảo, mở đôi mắt to, xanh nhạt của mình. “Có một yêu cầu lúc chín giờ ba mươi tìm những cô gái hấp dẫn. Bọn em ở đây đã hàng giờ rồi. Chị từng đóng cho hãng này trước đây chưa?” Cô nghiêng đầu. “Chưa, chị chưa.”
“Họ là một hãng rất tốt để mình đóng phim đấy,” cô nhỏ xinh nói. “Một người bạn của em có một người bạn nhận được ba mươi bảng một ngày… Chị đã đoóng nhiều phiêm chưa?”
“À, chị không phải diễn viên chuyên nghiệp,” cô Moss thú nhận. “Chị là ca sĩ giọng trầm. Nhưng mọi chuyện gần đây tồi tệ đến mức chị phải đi đóng phim chút đỉnh.”
“Là như thế, phải không, cưng?”
“Chị được học bài bản ở Cao đẳng Âm nhạc,” cô Moss nói, “và chị dành được giải bạc cho việc ca hát. Chị thường hát ở các buổi hòa nhạc ở khu West End. Nhưng chị nghĩ, để thay đổi, mình sẽ thử vận may…”.
“Vâng, là như thế, phải không, cưng?” Cô nhỏ xinh nói.
Vào lúc đấy một cô đánh máy xinh đẹp xuất hiện ở đầu cầu thang.
“Tất cả mọi người đang đợi vì lời yêu cầu của hãng North-East phải không?”
“Vâng!” Đám đông đồng thanh.
“À, nó bị hủy rồi. Tôi vừa biết qua điện thoại.”
“Nhưng cô này! Còn chi phí của chúng tôi?” Một người la lên.
Cô đánh máy coi thường nhìn đám đông, và cười không ngưng lại được.
“Các người sẽ không được trả phí. Hãng North-East không bao giờ trả phí cho đám người đến tìm việc.”
Chỉ có một cửa sổ tròn nhỏ xíu ở Hãng Bitter Orange. Không phòng đợi - không ai cả trừ một cô gái, người đến bên cửa sổ khi cô Moss gõ cửa, và nói: “Vâng?”
“Tôi có thể gặp nhà sản xuất không, làm ơn?” Cô Moss nói một cách dịu dàng. Cô kia dựa vào thanh chấn song cửa, mắt khép hờ và dường như đi vào giấc ngủ chốc lát. Cô Moss mỉm cười với cô ta. Cô kia không chỉ nhăn nhó; cô có vẻ ngửi thấy gì đó hơi khó chịu; cô khụt khịt mũi. Bất thình lình cô rời đi, trở lại với một mảnh giấy và ấn cho cô Moss.
“Điền vào phiếu!”
“Cô có thể lái máy bay - nhảy cầu cao - lái xe - nhảy bật cong - bắn súng?” Cô Moss đọc.
Cô bước dọc phố tự hỏi mình những câu hỏi ấy. Một cơn gió mạnh, lạnh lẽo thổi tới; nó đẩy mạnh cô, tát vào mặt cô, cười nhạo; nó biết cô không thể trả lời chúng. Ở quảng trường Square Gardens cô thấy một rổ nhỏ bằng dây kim loại và bỏ tờ giấy vào đấy. Và cô ngồi xuống trên một chiếc ghế dài và thoa phấn lên mũi. Nhưng người trong cái gương bỏ túi làm mặt gớm guốc với cô, và thế là quá đáng lắm cho cô Moss; cô khóc ngon lành. Trận khóc làm cô khuây khỏa kỳ lạ.
“Thôi, hết rồi,” cô thở dài. “Thật thoải mái khi ngồi xuống. Và mũi mình sẽ dịu đi trong không khí… Ở đây thật dễ chịu. Nhìn đám chim sẻ kìa. Chiếp. Chiếp. Bọn nó đến gần thế. Mình mong ai đó cho chúng ăn. Không tao chả có gì cho bọn mày cả, đám ti hin xấc xược ạ…”. Cô rời mắt khỏi chúng. Cái tòa nhà lớn đối diện là tòa nhà nào thế nhỉ - quán Café de Madrid? Ôi trời, tiếng hạ cánh ồn ã của bé con! Bé đáng thương! Đừng bận tâm - lại bay lên đi… Vào tám giờ tối nay… Café de Madrid. “Mình có thể chỉ vào ngồi đó và uống cà phê, thế thôi,” cô Moss nghĩ. “Một nơi như thế cũng dành cho nghệ sĩ. Mình có thể gặp may… Một quý ông đẹp trai da sẫm mặc áo lông đi vào cùng bạn, và ngồi ở bàn mình, có thể thế. ‘Không, ông bạn, tôi đã tìm một giọng nữ trầm cả Luân Đôn và tôi không thể tìm được một người. Ông thấy đấy, âm nhạc thật khó; hãy quan tâm đến nó.’” Và cô Moss nghe thấy mình đang nói: “Xin lỗi, tôi tình cờ là một giọng nữ trầm, và tôi đã hát phần đó nhiều lần rồi… Tuyệt diệu! ‘Quay lại phòng thu của tôi, và tôi sẽ thử giọng cô bây giờ.’ … Mười bảng một tuần… Sao mình thấy căng thẳng? Không phải là căng thẳng. Sao mình không đến quán Café de Madrid nhỉ? Mình là một phụ nữ đứng đắn - mình là nữ ca sĩ giọng trầm. Và mình chỉ run rẩy là bởi mình không có gì ăn cả ngày nay… ‘Một chút bằng chứng rõ ràng đấy, thưa quý cô.’ … Tốt lắm, bà Pine. Café de Madrid. Họ có hòa nhạc vào những buổi tối… ‘Sao họ không bắt đầu đi?’ Giọng nữ trầm chưa tới… ‘Xin lỗi, tôi tình cờ là một giọng nữ trầm; tôi đã hát phần nhạc đó nhiều lần rồi.’”
Trong quán cà phê gần như là tối đen. Đàn ông, những cây cọ, những chiếc ghế sang trọng màu đỏ, những cái bàn cẩm thạch trắng, những cô bồi bàn đeo tạp dề, cô Moss bước qua cả đám đấy. Cô chỉ vừa ngồi xuống thì một quý ông rất béo đội một cái mũ rất nhỏ lơ lửng trên đỉnh đầu, ông ta như một chiếc thuyền buồm ngồi phịch xuống ghế đối diện.
“Xin chào!” Ông ấy nói.
Cô Moss nói, theo cách vui vẻ của mình: “Xin chào!”
“Buổi tối đẹp trời,” quý ông to béo nói.
“Vâng, rất đẹp. Dễ chịu quá, phải không?” Cô nói.
Ông ta ngoắc ngón tay hình xúc xích với cô bồi bàn - “Mang cho tôi một ly whisky lớn” - và quay sang cô Moss. “Cô uống gì?”
“À, tôi nghĩ tôi sẽ uống một ly brandy nếu ông không phiền.”
Năm phút sau quý ông to béo dựa vào bàn và thổi một hơi thuốc đầy mặt cô.
“Dải ruy băng quyến rũ thế!” Ông nói.
Cô Moss đỏ bừng mặt cho tới khi một cái mạch ở tận đỉnh đầu mà cô chưa bao giờ cảm thấy, đập thình thịch.
“Tôi luôn thích màu hồng hơn cả,” cô nói.
Quý ông to béo chăm chú nhìn cô, đang gõ những ngón tay lên mặt bàn.
“Tôi thích chúng chắc và mập,” ông nói.
Cô Moss, trước sự ngạc nhiên của mình, lớn tiếng cười khẩy.
Năm phút sau quý ông to béo nặng nề nhấc mình lên. “Nào, tôi đi theo em, hay em đến chỗ tôi?” Ông ta hỏi.
“Em đi với anh, nếu anh không phiền,” cô Moss nói. Và cô oai vệ đi theo chiếc thuyền buồm ra khỏi quán cà phê.
![]() |
-------------
(Dịch từ truyện ngắn Pictures, in trong tập Selected Stories, Katherine Mansfield, Emily Perkins giới thiệu, Text Publishing, Melbourne Australia, 2012.)
(TCSH399/05-2022)
AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.
AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.
Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…
Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.
HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.
SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.
KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.
FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.
MIKHAIN SÔLÔKHỐP Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.
KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.
ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.
GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.
GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.
JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.
SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.
DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.
S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.
WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?
SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.
SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar trong một gia đình nông dân thuộc tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.