TRẦN THÙY MAI
(Nghĩ về tập nhạc mới của Trần Ngọc Tuấn)
Từ khi xa Huế, trong tôi thỉnh thoảng vẫn hiện ra những góc phố quen ở đó. Một trong những góc thường về trong tâm tư nhất là ngôi chợ nhỏ ven cầu Bến Ngự, nơi có nấm tràm, có hạt sen, có bắp non be bé xinh xinh bày la liệt vào cuối hè…Và cạnh đó, có ngôi nhà vườn yên tĩnh nên thơ của Trần Ngọc Tuấn.
Ngôi nhà ấy đối với tôi là hình ảnh của an bình và hạnh phúc, bởi đôi vợ chồng Tuấn - Thủy dễ thương như đôi chim câu, làm cho tôi nhớ cái hình ảnh lứa đôi trong thơ Nguyễn Bính:
Em lo gì trời gió,
Em sợ gì trời mưa,
Em buồn gì mùa hạ,
Em tiếc gì mùa thu.
Em cứ yêu đời đi!
Yêu đời như thưở nhỏ.
Rồi để anh làm thơ
Và để em dệt lụa.
Hai bạn tôi dễ thương như vậy đó, chỉ có khác một chút là hàng ngày Thủy không dệt lụa mà dành thời giờ nấu những món chay thật tinh tế, còn Tuấn thì không làm thơ mà lại viết nhạc. Ngày ấy Tuấn và Thủy thường rủ bạn hữu về đó cùng ăn ngon và ca hát với nhau. Chúng tôi hát - và nghe - tất cả những bài hát mình yêu thích, trong đó có nhạc của Tuấn. Âm nhạc và tình bạn đã làm cho cuộc sống ở một xứ sở thanh bạch lại có những giây phút đẹp như ở thiên đường.
Nhạc của Tuấn lãng mạn và trong sáng, đẹp như trời mây trên sông Bến Ngự. “Ngày ấy ngỡ vừa sang, xuân thì duyên dáng…” “Ngỡ ngàng mùa thu đến hay là trời thu đón em sang…”. Trong phần lớn tác phẩm, Tuấn chọn tiết tấu Vừa - Tha thiết, hoặc Andantino - Bâng khuâng. “Về đây mà chi? Ngày xuân đã xa…”. Thỉnh thoảng cũng có gợn lên hình ảnh của bão tố, nhưng là những cơn bão nhân từ. Nét nhạc đôi khi có thoáng buồn, nhưng là nỗi buồn xa xôi của hoài niệm, không làm loãng đi âm hưởng êm đềm của tình yêu và hạnh phúc.
Rồi ngày tháng qua đi. “Cuộc đời như sông kia còn khi nổi sóng bất ngờ…”.
Tôi đi xa, Tuấn và Thủy cũng đi xa. Bây giờ đôi chim câu của Huế đang ở thành phố Denver, làm chủ một shop hoa tươi ở đó. Đúng như tôi đã nghĩ: Nếu phải chọn một công việc mới để mưu sinh, hai bạn của tôi chắc chắn sẽ chọn một công việc liên quan đến cái đẹp. Tuấn vẫn mang theo những bản nhạc đã viết thời ở Huế, và còn tiếp tục viết thêm những dòng nhạc mới.
Tôi chưa gặp Tuấn và Thủy ở Denver, nhưng tôi tin, ở bất cứ nơi đâu bạn tôi đến, sẽ lại có một không gian dễ thương, hiền hòa, tin yêu, như ngôi nhà xưa cùng với bạn bè xưa, bên sông Bến Ngự. Trải qua những thăng trầm của cuộc đời, đi qua nhiều không gian quen lạ, giờ đây những “người sông Ngự” đã biết được một điều giản dị mà lớn lao nhất: Thiên đường ở ngay trong tim mỗi người. Vì vậy, bất cứ nơi đâu ta đến, dù thời tiết ra sao ta đều có thể mang theo ánh mặt trời ấm áp tỏa ra từ chính mình. Với Tuấn, ánh sáng đó là âm nhạc, một thứ âm nhạc dung dị, trong trẻo, sâu lắng. Những bản nhạc của Tuấn giống như tiếng chim hót trong lành giữa một sớm mai yên tĩnh, gợi lại trong tôi những giờ phút hạnh phúc nhất, những khuôn mặt thân thương nhất, những giấc mơ êm đềm nhất trong đời.
Trong một thế giới càng ngày càng hung bạo, cái cảm giác dịu dàng và an bình đó quả là một món quà quý nhất, với tôi.
T.T.M
(TCSH364/06-2019)
NGUYÊN QUÂN
Một cảm nhận thật mơ hồ khi cầm trên tay tập sách, vừa tản văn vừa tiểu luận của nhà văn Triệu Từ Truyền gởi tặng. Sự mơ hồ từ một cái tựa rất mơ hồ bởi lẽ chữ là một thực thể hữu hiện và chiếc cầu tâm linh chính lại là một ảo ảnh rất dị biệt với thực thể hữu hạn của những con chữ.
TUỆ AN
Đọc “Ảo giác mù”, tập truyện ngắn của Tru Sa (Nxb. Hội Nhà văn, 2016)
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Ngô Thì Nhậm viết bài thơ Cảm hoài cách đây 223 năm, nhân đi sứ báo tang Tiên hoàng Quang Trung băng hà và cầu phong An Nam quốc vương cho vua Cảnh Thịnh.
NGUYỄN THỊ THANH LƯU
Đã từ rất lâu rồi, tôi hài lòng với việc đọc thơ trong màu xám của một nỗi tuyệt vọng - nỗi tuyệt vọng không bao giờ phân tách nổi trắng đen giữa đám sương mù xám đặc dường như chỉ có dấu hiệu đậm dần lên trong những lớp lang chữ nghĩa, trong cách ngắt nhịp, buông vần.
MAI VĂN HOAN
Lẽ ra tôi không viết bài này. Thiết nghĩ văn chương thiên biến, vạn hóa, mỗi người hiểu một cách là chuyện bình thường. Tốt nhất là nên tôn trọng cách nghĩ, cách cảm thụ của người khác.
TRIỀU NGUYÊN
1. Đặt vấn đề
Nói lái được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp thông thường, và trong văn chương (một lối giao tiếp đặc biệt). Để tiện nắm bắt vấn đề, cũng cần trình bày ở đây hai nội dung, là các hình thức nói lái ở tiếng Việt, và việc sử dụng chúng trong văn chương.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc tiểu thuyết “Huế ngày ấy” của Lê Khánh Căn, Nxb. Quân đội nhân dân, 2006).
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
(Đọc “Song Tử” của Như Quỳnh de Prelle)
VŨ TRỌNG QUANG
Trần Thiên Thị viết tắt TTT hay đọc là 3 Tê, tôi liên tưởng đến những T thơ ca:
GIÁNG VÂN
Tôi gọi chị là “ Người truyền lửa”.
LGT: Trong khi giở lại tài liệu cũ, tình cờ chuỗi thơ xuân năm Ất Dậu 2005 của Thầy Trần Văn Khê xướng họa với chị Tôn Nữ Hỷ Khương và anh Đỗ Hồng Ngọc rơi vào mắt.
Là một nhà văn có sự nghiệp cầm bút truân chuyên và rực rỡ, sau cuốn tiểu thuyết “Chuyện ngõ nghèo”, có thể coi như cuốn tự truyện của nhà văn, Nguyễn Xuân Khánh chủ trương gác bút. Bởi ông biết mỗi người đều có giới hạn của mình, đến lúc thấy “mòn”, thấy “cùn” thì cũng là lúc nên nghỉ ngơi.
Nhà văn Ngô Minh nhớ ông và bạn văn cứ gặp nhau là đọc thơ và nói chuyện đói khổ, còn nhà thơ Anh Ngọc kể việc bị bao cấp về tư tưởng khiến nhiều người khát khao bày tỏ nỗi lòng riêng.
Tháng 4.1938, Toàn quyền Đông Dương đã “đặt hàng” học giả Nguyễn Văn Huyên thực hiện công trình Văn minh Việt Nam để dùng làm sách giáo khoa cho bộ môn văn hóa VN trong các trường trung học. Một năm sau, công trình hoàn thành nhưng lại không được người Pháp cho phép xuất bản.
TRẦN HOÀI ANH
NGUYỄN VĂN MẠNH
Kỷ niệm 140 năm ngày sinh Cụ Huỳnh Thúc Kháng
MAI VĂN HOAN
Vào một ngày cuối tháng 5/2016 nhà thơ Vĩnh Nguyên mang tặng tôi tác phẩm Truyện kể của người đánh cắp tượng Phật Thích Ca Mâu Ni vừa mới “xuất xưởng”.
Trong đời sống học thuật, nhất là khoa học xã hội, có rất nhiều thân danh dành cho số đông, công chúng (quen xem tivi, nghe đài đọc báo) nhưng cũng có những tiếng nói chỉ được biết đến ở phạm vi rất hẹp, thường là của giới chuyên môn sâu. Học giả Đoàn Văn Chúc là một trường hợp như vậy.
Dồn dập trong ba tháng Tám, Chín, Mười vừa qua, tám trong loạt mười cuốn sách của nhà nghiên cứu về Lịch sử Việt Nam thời Tây Sơn Nguyễn Duy Chính liên tiếp ra đời (hai cuốn kia đã ra không lâu trước đó). Cuộc ra sách ồ ạt này cộng thêm việc tác giả về thăm quê hương đã thu hút sự chú ý của bạn đọc và các nhà nghiên cứu ở Việt Nam.
NHƯ MÂY
Chiều 14/8/2016 không gian thơ nhạc bỗng trải rộng vô cùng ở Huế. Hàng trăm độc giả mến mộ thơ Du Tử Lê và bạn bè văn nghệ sĩ từ các tỉnh Kiên Giang, Đắk Lắk, Quảng Nam, Quảng Trị, Đà Nẵng, Hà Nội đã về bên sông Hương cùng hội ngộ với nhà thơ Du Tử Lê.