Như một đòi hỏi tự thân

16:15 30/12/2009
PHẠM QUANG TRUNGHiện nay, vấn đề đổi mới thi pháp đang được nhiều người cầm bút quan tâm. Xin ghi lại cuộc trao đổi mới đây giữa tôi (PQT) với một nhà văn (NV) về vấn đề bức thiết này.

NV: Anh có nhớ ai đã ví văn chương với một dòng sông: bao giờ cũng lưu lại hình bóng cảnh vật ở những nơi nó chảy qua.
PQT: Tôi không nhớ. Nhưng chắc đó là quan niệm khá phổ biến. Ở đây, có nhiều điều bất ổn. Đã đành mọi so sánh bao giờ cũng khập khiễng. Sự so sánh trong trường hợp này lại quá khập khiễng. Ngẫm kỹ, quả thật khó chấp nhận.

NV: Anh có thể nói rõ ý mình được không?
PQT: Thứ nhất: Văn chương không bao giờ phản chiếu máy móc cuộc đời như mặt sông in hình bóng của cảnh vật. Thứ hai: Phản ảnh (dẫu là sáng tạo) chưa phải là mục đích cuối cùng của văn chương. Có chăng cách nói đó thể hiện được sự gắn bó hữu cơ giữa văn chương và hiện thực. Nhưng ngay ở điểm khả dĩ này cũng dễ đưa đến một sự ngộ nhận tai hại: hình như thời đại không có ảnh hưởng mảy may nào tới lãnh vực thi pháp!

NV: Quả có thế! Người ta hay nói tới dấu ấn của thời đại lên nội dung, còn về mặt hình thức thì ít nói hơn…
PQT: Ít nói vì khó thấy. Là người trong nghề, ta không thể không thấy, không được phép không thấy. Nhất là hiện giờ. Dân tộc đang cùng nhân loại hướng tới thế kỷ XXI. Ta hoàn toàn có quyền mơ ước về đỉnh cao nghệ thuật trong một tương lai gần..

NV: Chẳng phải dân tộc ta đã từng tạo ra những đỉnh cao trong quá khứ?
PQT: Đấy là thực tế không ai có thể bác bỏ được. Song dẫu sao đó cũng chỉ là những đỉnh cao của quá khứ.

NV: Anh muốn so sánh về trình độ và mức độ.
PQT: Không. Sự đối chiếu kiểu ấy bao giờ cũng thô thiển vì thiếu biện chứng. Tôi muốn nói mỗi thời có đỉnh cao của mình. Vì thế, không thể lập luậNV: Văn chương cốt là hay, mới hay cũ về cách thức thể hiện không cần để tâm đến làm gì. Chả lẽ cái hay, cái đẹp của ngày hôm nay lại hoàn toàn giống cái hay, cái đẹp của ngày hôm qua?

NV: Anh có vẻ không mấy hài lòng vì cách viết hiện giờ của nhà văn chúng ta?
PQT: Không chỉ riêng tôi không hài lòng. Trong “Tác phẩm mới” (Số 1/1997) có đăng nhận xét của nhà văn Bùi Hiển thế này: “Một số tiểu thuyết của ta còn sử dụng lối trình bày nhân vật và sự kiện một cách mạch lạc, hợp lý, quá ư thật thà, tính cách nhân vật được giới thiệu ngay từ đầu như một cái gì cố định, bất biến, rồi sự việc diễn biến cũng dựa theo cái tính cách đã định hình ấy, đã được báo trước ấy mà phát triển”. Tôi muốn nói thêm, chả cứ gì truyện, thơ và phê bình cũng không thoát khỏi sự ngưng đọng ấy. Đại để đó chủ yếu là lối viết hiện thực, coi sự rõ ràng, trình tự, lôgic là những yêu cầu chính. Hình như ta chưa có tâm lý hòa nhập với các trào lưu văn chương khác ngoài văn chương hiện thực. Trong khi chỉ riêng ở thế kỷ này thôi lịch sử văn chương nhân loại đã chứng kiến biết bao cuộc “cách mạng” thật sự về thi pháp. Ngay chủ nghĩa hiện thực cũng đã biến đổi khá nhiều không còn nguyên dạng như ở thế kỷ trước. Thái quá, đã đành không nên, song bất cập cũng chẳng hay gì hơn!

NV: Trong khi sự giao lưu, hội nhập đang là xu thế tất yếu của thời đại…
PQT: Kể cũng hơi lạ đấy! Thời chiến tranh , quan hệ quốc tế có phần hạn hẹp, lại phải dồn sức cho sự nghiệp giữ nước, nếu nhà văn ít quan tâm đến đổi mới về thi pháp, thì cũng là lẽ thường tình, có thể giải thích được. Giờ thì quả khó hiểu. Sách văn chương nước ngoài được dịch nhiều hơn bao giờ hết, đủ mọi trào lưu, xu hướng. Cũng đã xuất hiện nhiều công trình khảo cứu, giới thiệu văn chương hiện đại thuộc mọi chân trời khác nhau. Thế mà sự cách tân về phương thức biểu hiện còn chậm chạp và ít ỏi. Lại sống sượng và thiếu hiệu quả nữa…

NV: Có lẽ anh muốn nói đến khuynh hướng đổi mới thi pháp thơ cách đây vài ba năm?
PQT: Đúng thế! Song đến giờ xem ra sóng đã yên, biển đã lặng. Có điều đáng ngạc nhiên là những cây bút từng vùng vẫy bứt phá một thời đến giờ phần đông lại trở về đường quen lối cũ. Họ có vẻ bình thản, bình thản đến lạ lùng. Cứ như chẳng có gì xảy ra trước đó vậy. Theo tôi, khuynh hướng cách tân của họ không thể đến đích được bởi ba nguyên do. Một là: Quan niệm thơ của họ có phần cực đoan; Hai là: Họ chưa đưa ra được những bài thơ hay; Và ba là: Môi trường đổi mới về thi pháp văn chương ở ta chưa thuận.

NV: Tôi tán đồng với anh, nhất là nguyên do thứ ba. Anh có thấy sự khởi sắc về thi pháp của các ngành nghệ thuật anh em khác không?
PQT: Vâng! Như nghệ thuật tạo hình. “sân chơi” của họ mới khoáng đạt làm sao! Có hiện thực, có siêu thực, cả trừu tượng, lập thể nữa. Nhiều phòng tranh của các họa sĩ (không loại trừ các họa sĩ có tuổi đã thành đạt) mới lạ mà cuốn hút đến sững sờ. Có thể dễ dàng cảm nhận sức thanh xuân của họ qua từng đường nét, từng mảng màu. Thật là táo bạo! Nghĩ đến “sân chơi” của văn chương đôi lúc tôi không khỏi ngạc nhiên, cả buồn phiền, day dứt nữa…

NV: Có ai cấm đoán ta đâu. Tự ta trói buộc ta đấy chứ!
PQT: Thật ra có nhiều cái khó, rất khó. Muốn đổi mới thi pháp, phải thể nghiệm. Mà thể nghiệm nào chẳng phiêu lưu. Chấp nhận thể nghiệm là chấp nhận phiêu lưu. Rất có thể sẽ mất công toi mà không  đến đích…

NV: Nghĩa là phải cần dũng khí.
PQT: Đúng vậy! Sử dụng các phương tiện mới lạ bao giờ cũng rất cần dũng khí, để bứt ra khỏi lối mòn, để làm một cái gì khác trước… Tôi muốn nói thêm, còn cần tài năng nữa. Mọi tài năng khi nào cũng có xu hướng tự vượt mình. Điều đó không ngăn cản xu hướng tự hoàn thiện bản thân. Chẳng phải vô cớ mà ai đó đã nói: Tự thỏa mãn chính là dấu hiệu chấm dứt văn nghiệp.

NV: Tóm lại, anh muốn chứng minh: đổi mới thi pháp là một đòi hỏi tự thân của chính văn chương của chính nghề văn. Viết cho bạn đọc hiện đại buộc người viết phải là nhà văn hiện đại.
PQT: Đó là một mệnh đề thú vị. Người ta thường nói: Viết cho người thông minh buộc người viết phải là người thông minh. Giờ anh nói vậy, không lý thú sao! Nếu gộp lại có thể nói: Viết cho người thông minh hiện đại đọc buộc phải là nhà văn hiện đại thông minh.

NV: Có phải do nhu cầu thẩm mỹ của con người hiện đại đã đổi khác?
PQT: Không chỉ có thế! Thi pháp chưa được mở rộng còn chứng tỏ “vùng thẩm mỹ” của văn chương còn bó hẹp. Phương thức thể hiện bao giờ cũng gắn với đối tượng thể hiện. Viết như thế nào phụ thuộc vào viết để làm gì và viết cái gì. Có những khoảng thực tại, như chiều sâu tâm thức, phải tìm những cách biểu hiện khác mới sống động lên được.

NV: Tôi cũng rất mong hãy từ nội dung để đi tìm hình thức thích hợp, chứ không phải ngược lại.
PQT: Đã có nhiều bài học nhãn tiền rồi ! Nhà thơ Ngô Văn Phú từng lưu ý: “Có một số tác phẩm đưa vào đủ thứ chủ nghĩa để khoe mình là người thời thượng, văn minh như chỉ là cái vỏ chứ thực ra hiểu một thứ chủ nghĩa cho sâu sắc, tìm ra một lời nào cho riêng mình như một sự phát hiện thì không có” (Tác phẩm mới, số 1/1997).

NV: Tôi cũng thấy vậy!
PQT: Cho nên, sự táo bạo đi cùng với tính đích thực bao giờ cũng là mong mỏi của chúng ta trong mọi cuộc cách tân.
NV: Vâng, đúng thế!

Đà Lạt 23/9/97
P.Q.T.
(122/04-99)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG QUẢNG UYÊNTôi yêu mến và quý trọng những câu thơ như là "không thơ" của chị:Câu thơ nước chảy bèo trôi/ Vẫn nghiêng về phía phận đời khổ đau. (Hương cỏ)

  • FRANÇOIS JULLIEN                                        LTS: Hạ tuần tháng tư năm 2001, nhà triết học F.Jullien đến thăm Hà Nội nhân dịp lần đầu tiên công trình của ông được giới thiệu ở Việt Nam trong văn bản tiếng Việt (Xác lập cơ sở cho đạo đức- N.x.b Đà Nẵng, 2000). Cuối năm nay sẽ được xuất bản bản dịch công trình Bàn về tính hiệu quả ( F.Jullien. Traité de l’efficacité.Grasset, 1997). Sau đây là bản dịch chương III của tác phẩm này (do khuôn khổ của tạp chí, có lược đi một số đoạn). Nhan đề do chúng tôi đặt. Trong bài, số thiên đơn thuần (chẳng hạn th.81) là số thiên trong sách Đạo Đức Kinh còn gọi là sách Lão tử.

  • NGÔ MINH Tôi quen biết với anh Tường hơn 25 năm nay ở Huế như một người bạn vong niên thân thiết. Trong máy tính của tôi còn lưu trữ bài Anh Tường ơi viết từ năm 1998, gần 3000 chữ chưa công bố. Đó là bài viết mà nhà văn Nguyễn Quang Hà, Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương lúc đó, bảo tôi viết, sau chuyến chúng tôi đi thăm anh Tường bị trọng bệnh đang nằm hôn mê ở Bệnh viện Đà Nẵng về.

  • HỒ THẾ HÀHoàng Phủ Ngọc Tường dấn thân vào nghiệp bút nghiên bằng thơ cùng những năm tháng "hát cho đồng bào tôi nghe" sục sôi nhiệt huyết đấu tranh chống thù và ước mơ hòa bình trên quê mẹ Việt yêu dấu.

  • PHẠM PHÚ PHONG"Tôi ngồi nhớ lại tất cả nỗi trầm tư dài bên cạnh mớ hài cốt khô khốc của anh Hoàng. Trước mắt tôi, tất cả cuộc sống đầy những hùng tráng và bi thương vốn đã từng tồn tại trên mảnh đất rừng này, giờ đã bị xoá sạch dấu tích trong sự câm nín của lau lách. Như thế đấy có những con đường không còn ai đi nữa, những năm tháng không còn ai biết nữa, và những con người chết không còn hắt bóng vào đâu nữa...

  • LÊ THỊ HƯỜNG1. Yêu con người Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thơ, quý con người Hoàng Phủ trong văn, tôi đã nhiều lần trăn trở tìm một từ, một khái niệm thật chính xác để đặt tên cho phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường.

  • TRẦN THÙY MAICó lần anh Hoàng Phủ Ngọc Tường nói: tính chất của người quân tử là phải "văn chất bân bân". Văn là vẻ đẹp phát tiết ra bên ngoài, chất là sức mạnh tiềm tàng từ bên trong. Khi đọc lại những bài nghiên cứu về văn hóa – lịch sử của anh Tường, tôi lại nhớ đến ý nghĩ ấy. Nếu "văn" ở đây là nét tài hoa duyên dáng trong từng câu từng chữ đem lại cho người đọc sự hứng thú và rung cảm, thì "chất" chính là sức mạnh của vốn sống, vốn kiến thức rất quảng bác, làm giàu thêm rất nhiều cho sự hiểu biết của người đọc.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCXuất thân từ một gia đình hoàng tộc, cử nhân Hán học, giỏi chữ Hán, thông thạo chữ  Pháp, từng làm quan dưới thời Nam triều, nhưng Ưng Bình Thúc Giạ Thị là một nhân cách độc đáo.

  • HỮU VINH Chúng ta đã thưởng thức thơ, ca Huế, ca trù, hò, tuồng của thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một nhà thơ lừng lẫy của miền sông Hương núi Ngự. Nhưng nói đến sự nghiệp văn chương của thi ông mà không nói đến thơ chữ Hán của thi ông là một điều thiếu sót lớn.

  • ĐỖ LAI THÚYQuang Dũng nói nhiều đến mây, đặc biệt là mây trời Sơn Tây, Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm! Mây là biểu tượng của tự do, của lãng du. Mây trắng là xứ sở của tiêu dao trường cửu. Chất mây lãng tử ở Quang Dũng, một phần do thổ ngơi xứ Đoài, phần kia do văn học lãng mạn.

  • CAO XUÂN HẠOĐọc bài Nỗi đau của tiếng Việt của Hữu Đạt (H.Đ) trong tuần báo Văn nghệ số 9 (2-3-2002), tôi kinh ngạc đến nỗi không còn hiểu tại sao lại có người thấy mình có thể ngồi viết ra một bài như thế. Tôi cố sức bới óc ra nghĩ cho ra người viết là ai, tại sao mà viết, và viết để làm gì. Rõ ràng đây không phải là một người hoàn toàn không biết gì về giới ngôn ngữ học Việt . Nhưng hầu hết những điều người ấy viết ra lại hoàn toàn ngược với sự thật.

  • MAI VĂN HOAN.Tôi biết Nguyễn Duy qua bài thơ “Tre Việt ” in trên báo Văn Nghệ. Từ đó, tôi luôn theo sát thơ anh. Mở trang báo mới thấy tên anh là tôi đọc đầu tiên. Với tôi, anh là một trong những người hiếm hoi giữ được độ bền của tài năng.

  • THỦY TRIỀU SUNG HUYỀN"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã từng có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Đành rằng ngôn ngữ thơ ca thường hàm súc, cô đọng, đa nghĩa do đó có thể có nhiều cách tiếp cận tác phẩm.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMỗi loại hình nghệ thuật ngôn từ đều có phong cách riêng trong cư xử với đối tượng mà nó phản ánh. Chính vì thế, đề tài tiểu thuyết trong khi mang những tính chất chung có của mọi thể loại văn học, nó đồng thời mang những tính chất riêng chỉ có của thể loại tiểu thuyết.

  • VĂN TÂMNhà thơ Bằng Việt (tên thật Nguyễn Việt Bằng) tuổi Tỵ (1941) quê "xứ Đoài mây trắng lắm", là một trong những thi sĩ bẩm sinh của thơ ca Việt hiện đại.

  • THANH THẢOHoàng Phủ Ngọc Tường có tập thơ "Người hái phù dung". Hoa phù dung sớm nở tối tàn, vẫn là loài hoa hiện hữu trong một ngày.

  • JOSH GREENFELDNgười Nhật vốn nổi tiếng vì tính bài ngoại của họ, thể hiện qua nghệ thuật cắm hoa và trà lễ. Tuy nhiên cũng từ rất lâu rồi nhiều nhà văn Nhật Bản vẫn quyết liệt phấn đấu mong tìm kiếm một chỗ đứng đáng kể trên các kệ sách của các thư viện nước ngoài. Họ làm thế không chỉ vì có nhiều tiền hơn, danh tiếng hơn mà còn vì một điều rằng những ai có tác phẩm được dịch nhiều ở nước ngoài thì sẽ được trân trọng, chờ đón ở trong nước!

  • BỬU NAM            Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của văn hào Victor Hugo (1802 - 2002)1. Người ta thường gọi Hugo là “con người đại dương”. Bởi sự vĩ đại của tư tưởng và sự mệnh mông của tình cảm của ông đối với nhân dân và nhân loại, bởi sự nghiệp đồ sộ của ông bao hàm mọi thể loại văn học và phi văn học; bởi sự đa dạng của những tài năng của ông in dấu ấn trong mọi lĩnh vực hơn hai thế kỷ qua trong nền văn học và văn hóa Pháp. Đến độ có nhà nghiên cứu cho rằng: Tất cả những vấn đề lớn của nhân loại đều hàm chứa trong các tác phẩm của Hugo như “tất cả được lồng vào tất cả”.

  • LẠI MAI HƯƠNGTiểu thuyết Những người khốn khổ có một số lượng nhân vật nữ rất đông đảo, nhưng mỗi nhân vật mang một sức sống riêng, một sinh lực riêng bởi nghệ thuật xây dựng các nhân vật này không hoàn toàn đồng nhất. Bài viết sẽ đi vào khảo sát một số nữ nhân vật tiêu biểu, bước đầu thử tìm hiểu thủ pháp xây dựng và cái nhìn của Hugo đối với loại nhân vật này.

  • PHẠM THỊ LYTôi viết những dòng này vì biết rằng giáo sư Cao Xuân Hạo sẽ không bao giờ trả lời bài viết của một tác giả như anh Phạm Quang Trung và những gì mà anh đã nêu ra trong bài "Thư ngỏ gửi Giáo sư Cao Xuân Hạo đăng trên Tạp chí Sông Hương số 155, tháng 1-2002.