Nhu cầu của văn học dân tộc chủ nghĩa

14:34 08/04/2020

ĐOÀN ÁNH DƯƠNG

1. Không đơn thuần là “mô phỏng”/ “phản ánh”, một kiểu “chủ nghĩa đề tài” quen thuộc trong văn học về chiến tranh và cách mạng, văn học Việt Nam đương đại đã trực tiếp tham dự vào quá trình kiến tạo diễn ngôn dân tộc chủ nghĩa.

Ảnh: internet

Tình hình chính trị - xã hội của đất nước cùng những sự kiện khích động tinh thần dân tộc đã tác động mạnh mẽ tới nhà văn, thúc đẩy họ lựa chọn sáng tạo ở những chủ đề có tính thách thức như các cuộc chiến tranh nơi biên giới hay các quan điểm biểu thị các yêu sách chủ quyền lãnh hải, lãnh thổ. Khởi đầu bằng các tự sự hư cấu, như một chiến lược diễn ngôn cần thiết bảo đảm cho sự xuất hiện và phổ biến các vùng hiện thực còn khuất lấp, nhạy cảm, dễ động chạm, như các cuộc chiến tranh (biên giới) Việt Nam - Campuchia và việc Việt Nam mang quân tình nguyện sang Campuchia chống lại Khmer Đỏ nhằm vãn hồi hòa bình và trật tự trên nước bạn cùng dọc giải biên giới hai nước. Sau đó, khi những vùng hiện thực này đã được làm quen, là sự trỗi dậy của các tự sự phi hư cấu, trong hình hài các ghi chép, bút ký, truyện ký “người thật việc thật” cung cấp thêm tính đích thực của hiện thực được thể hiện. Con đường này ngược lại với cách thức tiếp cận của văn học ngay khi sự kiện xảy ra, khi mà lúc ấy, tự sự phi hư cấu được ra đời trước, thể hiện vai trò “trực chiến”, nắm bắt và thể hiện tính nóng hổi của sự kiện, sau đó mới là các tự sự phi hư cấu như là cách thức người trong cuộc và nhà văn nghiền ngẫm sâu hơn về nguyên nhân, bản chất và hệ lụy của những hành động chấn động ấy. Tại sao lại có một “hành trình ngược” như vậy 30 - 40 năm sau khi các cuộc chiến qua đi? Sự thay đổi không gian chính trị xã hội và văn hóa văn học, sự chuyển biến trong các hình dung và trải nghiệm về bản chất cuộc chiến, cùng những đòi hỏi trong nhận thức hậu chiến về vai trò và vị thế của dân tộc như là kết quả của các hành vi chiến trận,… đã làm sống lại một vùng hiện thực bị khuất lấp, tái nhận thức và đặt ra các yêu sách khởi đi từ sự trở lại ấy. Bài viết này xem xét cách thức mà văn học Việt Nam, thông qua những tác phẩm mang chủ đề các cuộc chiến tranh nơi biên giới và biển khơi, nơi nhà văn hiện thực hóa các động cơ sáng tạo của mình và các cơ sở xuất bản thì hợp thức hóa các động cơ kinh tế chính trị của họ, đã hình dung về dân tộc và qua đó (một cách vô thức hay hữu thức, vô tình hay hữu ý, ngẫu nhiên hay tất yếu) mà tham dự vào quá trình kiến tạo chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam đương đại.

2. Nhìn từ “chủ nghĩa đề tài”, có thể nhận thấy chiến tranh biên giới phía Bắc, nhất là chiến tranh biên giới Tây Nam, đã là một chủ đề được nhiều tác giả lựa chọn khi sáng tác từ chất liệu chiến tranh. Ngay khi chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra, nhà văn - đạo diễn Đặng Nhật Minh đã có truyện ngắn xuất sắc “Thị xã trong tầm tay”, sau được chính ông chuyển thể thành phim điện ảnh cùng tên, nhận giải Bông Sen vàng trong Liên hoan phim Việt Nam 1983. Đó là một sự kiện văn học nghệ thuật nổi bật, bên cạnh rất nhiều ký sự, truyện và thơ được đăng tải trên báo chí văn hóa văn nghệ, thậm chí là báo chí chính trị và quân đội, như tờ Nhân dân Quân đội nhân dân. Đề tài biên giới Tây - Nam xuất hiện nhiều sáng tác, chẳng hạn: Dòng sông Xônét (1980, tiểu thuyết của Nguyễn Trí Huân), Đường vào Phnôm Pênh (1981, ký của Bùi Cát Vũ), Không phải trò đùa (1985, tiểu thuyết của Khuất Quang Thụy), Biên giới, Bên rừng thốt nốt (1985 - 1986, tiểu thuyết của Nguyễn Trung), Khoảng rừng có những ngôi sao (1987, truyện của Văn Lê), Dòng sông nước mắt (1989, tiểu thuyết của Thanh Giang), Mùa xa nhà (2004, tiểu thuyết của Nguyễn Thành Nhân), Bên dòng sông mê (2012, tiểu thuyết của Bùi Thanh Minh),… Cùng với nhiều truyện ngắn (chẳng hạn, được tuyển in trong 2 tập Truyện ngắn Tây Nam, Nxb. Trẻ, 2004). Chỉ có điều, đề tài chiến tranh biên giới khi này chỉ được nhìn nhận như một đề tài văn học đơn thuần, chưa bị quy chiếu bởi không gian đậm màu dân tộc chủ nghĩa như sau 2014. Và dù có được quan tâm bởi một số nhà văn sinh thành và trải nghiệm cuộc chiến ấy, nó vẫn chỉ là một dòng mạch nhỏ lẻ, trong sự vạm vỡ của dòng chảy văn học chiến tranh và cách mạng ở Việt Nam hậu chiến.

Quá khứ chiến tranh sâu đậm, cùng những cuộc chiến sau thống nhất đất nước ngày càng đòi hỏi được bạch hóa, những câu chuyện về các cuộc chiến tranh nơi biên giới và hải đảo ấy, vì vậy, vẫn là niềm thao thức của nhiều nhà văn cựu binh cùng một thế hệ các nhà văn trẻ muốn “khảo cổ học tri thức” các di chỉ ký ức chiến tranh vẫn còn khuất lấp ấy. Khi Trung Quốc vươn lên trở thành siêu cường, sự gần gũi về mặt địa chính trị và ý thức hệ, đã làm dấy lên ở Việt Nam những lo ngại, nảy sinh ý hướng thoát Trung, thoát Á. Nhu yếu tự vệ này làm nảy nở dần dần chủ nghĩa dân tộc. Cùng giới trí thức, nhà văn cũng đảm lãnh và thực thi vai trò công chúng của mình. Tìm một tác động cụ thể trên phương diện văn học, có thể đó chính là việc Ma chiến hữu của Mạc Ngôn được dịch và xuất bản ở Việt Nam1. Mạc Ngôn xuất bản cuốn tiểu thuyết, trong nguyên bản với tên Chiến hữu trùng phùng, năm 2004, tức 25 năm sau khi cuộc chiến kết thúc. Bản dịch sang tiếng Việt được thực hiện và ấn hành 3 năm sau đó, trong một dự án mà Công ty Văn hóa Phương Nam muốn giới thiệu hệ thống các tác phẩm quan trọng của tác giả nổi tiếng Trung Quốc này tới độc giả tiếng Việt. Không ngờ, với Ma chiến hữu, việc đơn vị liên kết và xuất bản nhấn mạnh trên bìa 4 cuốn tiểu thuyết, khẳng định tiểu thuyết là: “Một cách nghĩ khác về chiến tranh. Một cách ca tụng riêng về chủ nghĩa anh hùng”, đã là nguyên cớ trực tiếp cho “một cơn giận dữ” nơi độc giả, khi cho rằng tiểu thuyết vì thế đã bóp méo cuộc chiến tự vệ chính nghĩa của Việt Nam, gây nên một cuộc tranh luận ồn ào về tiểu thuyết và về cuộc chiến tranh biên giới 1979 mà tiểu thuyết ấy thể hiện. Song quan trọng hơn, sự hiện diện của bản dịch tiếng Việt của tiểu thuyết đã chạm tới “tự ái nhà văn” Việt Nam, khiến họ phải suy nghĩ và dằn vặt về lẽ sống, lẽ viết. Bình luận về cuốn tiểu thuyết khi nó đang tạo ra các cuộc tranh luận ở Việt Nam, Bảo Ninh cảm khái:

“Đọc tiểu thuyết Ma chiến hữu của nhà văn Mạc Ngôn do dịch giả Trần Trung Hỷ dịch ra tiếng Việt mà tự cám cảnh. Thấy buồn quá. Cuộc chiến tranh cách đây đã gần tròn ba chục năm Mạc Ngôn đã đề cập tới tưởng là phải được tái hiện và được ngẫm nghĩ trước nhất bởi nhà văn nước mình, vậy mà không, hoàn toàn không…2” Tâm sự của nhà văn Bảo Ninh cũng là tâm sự của nhiều nhà văn khác. Có lẽ ngoài tình bạn văn, suy tư của Bảo Ninh đã khiến Nguyễn Bình Phương chia sẻ với ông bản thảo cuốn tiểu thuyết viết về đề tài này sau đó mấy năm.

Năm 2014, sự kiện HD-981 đã là nguyên cớ trực tiếp cho sự khai sinh của tiểu thuyết này ở trong nước. Nhà xuất bản Trẻ đã lần đầu xuất bản tiểu thuyết này, trong tên gọi ban đầu của nó, Mình và họ, vào tháng 8/2014. Và một lần nữa, tiểu thuyết có được dư luận và được đánh giá cao. Một năm sau ngày xuất bản, vào tháng 10/2015, tiểu thuyết nhận số phiếu bầu tuyệt đối từ Hội đồng xét duyệt Giải thưởng Văn học 2015 của Hội Nhà văn Hà Nội để nhận giải ở hạng mục Văn xuôi giải thưởng thường niên uy tín này; và tiểu thuyết cũng được tái bản vào các năm sau. Trong tiểu thuyết, nhà văn quân đội Nguyễn Bình Phương đã là nhà văn đầu tiên thực hiện một chiến lược diễn ngôn mới, khi lồng ghép vấn đề chiến tranh biên giới phía Bắc vào trong một thực hành đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết, vốn là phương diện làm nên đặc trưng phong cách nghệ thuật và tạo dựng vị thế nhà văn cách tân ở ông trong đời sống văn học đương đại. Có thể nói, sự “nương tựa” vào nhau giữa một bên là nội dung “nhạy cảm” và một bên là hình thức cách tân, đã trở thành cái “cớ” cho những biện minh về tác phẩm khi xuất bản.

Sau đột phá khẩu của Nguyễn Bình Phương, chỉ trong vài năm, đã có thêm nhiều tác phẩm viết về chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc được xuất bản: Hoang tâm (tiểu thuyết, Phương Đông & Nxb. Hội Nhà văn, 2013) và Xác phàm (tiểu thuyết, Nxb. Trẻ, 2014) của Nguyễn Đình Tú, Miền hoang của Sương Nguyệt Minh (tiểu thuyết, Nxb. Trẻ, 2014),… Cuộc thi truyện ngắn năm 2013 - 2014 của tạp chí Văn nghệ quân đội cũng ghi nhận nhiều truyện ngắn về đề tài chiến tranh và người lính của các nhà văn trẻ, tất nhiên trong đó có những truyện ngắn trực tiếp chọn các cuộc chiến tranh biên giới làm đề tài. Có thể nhắc đến Âm thanh của ký ức, Chuyện Nguyên Phong của Doãn Dũng, Trên núi Tưk-cot của Hồ Kiên Giang, Hoài niệm U Đôm Xay của Lê Mạnh Thường, Vì sao tuổi thơ của Phùng Kim Trọng, Hành trình của gió của Vũ Văn Song Toàn, Chiếc áo màu hồng ngọc của Trần Văn Đẳng, Tiếng đò của Tạ Ngọc Dũng, Tia nắng cuối cùng của Dương Phượng Toại,… trong đó truyện ngắn của Doãn Dũng và Hồ Kiên Giang được chọn để trao giải.

Cùng và sau đó, là các tác phẩm phi hư cấu: Mùa chinh chiến ấy (hồi ức chiến binh, Nxb. Trẻ, 2017) của Đoàn Tuấn, Lính Hà của Nguyễn Ngọc Tiến (tự truyện, Nxb. Trẻ, 2017), Chuyện lính Tây Nam (hồi ức, Nxb. Thanh niên, 2017) của Trung Sỹ,3… Năm 2018, thêm 2 cuốn sách phi hư cấu nữa về đề tài chiến tranh biên giới và bảo vệ chủ quyền biển đảo được xuất bản: Gạc Ma - vòng tròn bất tử (ký của nhiều tác giả; Thiếu tướng Lê Mã Lương chủ biên, Công ty First News Trí Việt & Nxb. Văn học), Về từ hành tinh ký ức (ký sự của Võ Diệu Thanh, Tao Đàn & Nxb. Hội Nhà văn). Cả hai tác phẩm, ngay khi xuất bản, lần lượt vào tháng 6 và tháng 8, đã nhanh chóng được dư luận chú ý.

Cuối năm 2018 và bước sang năm 2019, lần đầu tiên trong lịch sử, hoạt động kỷ niệm 40 năm chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh biên giới được đăng tải rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Với đời sống văn hóa văn nghệ, tuy không có được những hoạt động kỷ niệm rầm rộ như đời sống thông tấn báo chí, nhưng Hội Nhà văn Việt Nam cũng sớm có động thái hướng tới kỷ niệm này. Ngày thơ Việt Nam lần thứ 17 đã chọn chủ đề “Sông núi trên vai” và được tổ chức sớm hơn rằm Nguyên tiêu 2 ngày, nhằm đúng kỷ niệm 40 năm ngày bắt đầu cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc (17/2/1979). Đến tháng 7/2019, dịp kỷ niệm ngày Thương binh Liệt sĩ 27/7, nhà xuất bản Trẻ tổ chức “Chương trình giới thiệu sách Kỷ niệm 40 năm chiến thắng Chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc (1979 - 2019)”. Dịp này, nhà xuất bản Trẻ tái bản các cuốn Mùa xa nhà (Nguyễn Thành Nhân), Mình và họ (Nguyễn Bình Phương), Lính Hà (Nguyễn Ngọc Tiến), Mùa chinh chiến ấy (Đoàn Tuấn); ngoài ra, in mới Mùa linh cảm (Đoàn Tuấn), Rừng khộp mùa thay lá (Nguyễn Vũ Điền), là các tập bút ký về cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam, và Những mùa xuân con không về, một tuyển tập các bài ký của nhiều tác giả về cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc. Trước đấy không lâu, nhà xuất bản Trẻ cũng ấn hành tiểu thuyết Một trăm ngày trước tuổi hai mươi của Đoàn Tuấn, để bổ sung một lối tự sự nữa, bên cạnh thơ (Đất bên ngoài tổ quốc, in chung với Lê Minh Quốc) và bút ký (Những người không gặp nữa, Mùa chinh chiến ấy, Mùa linh cảm) của nhà văn được sinh thành từ trong cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam này. Bên cạnh nhà xuất bản Trẻ, nhãn hiệu sách Sống của AlphaBooks cũng liên kết với nhà xuất bản Văn học để tái bản Xác phàm của Nguyễn Đình Tú, Chuyện lính Tây Nam của Trung Sỹ,… Bên cạnh đó, các cơ quan báo chí văn hóa văn nghệ cũng dành sự quan tâm tới chủ đề này. Tháng 6/2019, tại Hà Tĩnh, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh - Tạp chí Hồng Lĩnh đã tổ chức Hội thảo “Tạp chí văn nghệ 6 tỉnh Bắc Miền Trung với đề tài biển đảo”, quy tụ tiếng nói của đại diện các Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật các tỉnh trong khu vực và các tạp chí Xứ Thanh, Sông Lam, Hồng Lĩnh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Sông Hương. Các động thái này cho thấy một sự quan tâm đáng kể của các nhà xuất bản, các cơ quan báo chí văn hóa văn nghệ, các công ty văn hóa truyền thông tới chủ đề từ chỗ nhạy cảm đã trở nên khá rộng mở này, theo những chuyển biến trong đời sống chính trị xã hội, cũng như sự quan tâm và đòi hỏi ngày càng nhiều hơn của công chúng văn học đang ngày càng dấn sâu vào các không gian của tư tưởng dân tộc chủ nghĩa.

3. Gạc Ma - vòng tròn bất tử được Công ty First News Trí Việt & Nxb. Văn học liên kết ấn hành theo quyết định xuất bản số 746/QĐ-VH ngày 24/4, in xong và nộp lưu chiểu ngày 15/6, phát hành rộng rãi trên toàn quốc vào cuối tháng 6/2018. Đây là cuốn sách đầu tiên về trận chiến Gạc Ma ngày 14/3/1988. Ngày 13/3/2015, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khởi công xây dựng Khu tưởng niệm Chiến sĩ Gạc Ma tại Khu du lịch bắc bán đảo Cam Ranh (tỉnh Khánh Hòa), bằng kinh phí đóng góp của người dân và đoàn viên công đoàn cả nước. Ngày 15/7, Khu tưởng niệm được khánh thành, rộng 2,5ha, với các hạng mục như: quảng trường, tượng đài, khu trưng bày hiện vật về biển đảo và kỷ vật của 64 chiến sĩ đã hi sinh ở Gạc Ma, khu mộ gió và công viên,… Và như đã nhắc đến ở trên, tháng 6/2018, cuốn sách đầu tiên về hải chiến Gạc Ma mới được xuất bản. Tuy nhiên, hành trình để cuốn sách đến tay bạn đọc là rất gian truân: 4 năm thực hiện, qua 14 nhà xuất bản, với 48 lần biên tập, chỉnh sửa, được Hội đồng thẩm định cấp nhà nước do Ban Tuyên giáo Trung ương và Nhà xuất bản Văn học thành lập thông qua4. Ngay khi cuốn sách được phát hành, ngày 8/7, đại diện nhà xuất bản Fortis (Mỹ), ông James G. Zumwalt đã gặp đại diện Công ty First News - Trí Việt, mua bản quyền sách Gạc Ma - Vòng tròn bất tử để dịch sang tiếng Anh, và xuất bản tại Mỹ. Chưa đầy 1 tháng sau khi phát hành, cuốn sách được bạn đọc đón nhận, và có nhiều ý kiến phản hồi, đề nghị đính chính một số thông tin lịch sử chưa chính xác. Phía nhà xuất bản đã nhanh chóng tiếp thu, ngày 13/7, trao đổi với phóng viên báo Tuổi trẻ, TS. Nguyễn Anh Vũ, Giám đốc nhà xuất bản Văn học thông tin phía nhà xuất bản sẽ tiến hành tạm dừng phát hành để chỉnh sửa, in mới và thu đổi sách5.

Ở một chiều hướng khác, sự kiện lịch sử lại được khơi dậy từ nỗ lực của cá nhân, và được phổ biến nhờ sự cảm thông, chia sẻ, trân trọng của cộng đồng đọc văn học. Đó là trường hợp của tập ký sự Về từ hành tinh ký ức của Võ Diệu Thanh. Dựa trên hồi ức của những nạn nhân, những người chứng kiến, Võ Diệu Thanh tái hiện nỗi đau khổ tột cùng của người dân trong sự kiện quân Khmer Đỏ thảm sát người dân Việt Nam tại xã Ba Chúc (huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) vào tháng 4/1978. Trong 11 ngày chiếm đóng xã vùng biên này (18/4 - 30/4/1978), quân Khmer Đỏ đã thẳng tay giết chết một cách dã man 3.157 người, trong đó có hơn 100 hộ bị chúng giết sạch cả nhà. Sau khi chúng rút đi, còn hơn 200 người chết và bị thương do đạp vào mìn và lựu đạn do chúng gài lại. Đã có những nghiên cứu và thông tin về thảm sát Ba Chúc. Một công trình tưởng niệm (Nhà mồ Ba Chúc, nơi lưu giữ hộp sọ của 1.159 nạn nhân, từ em bé sơ sinh đến cụ già) được chính quyền và nhân dân An Giang xây dựng năm 1979. Nhưng với Về từ hành tinh ký ức, đây là lần đầu tiên, vụ thảm sát này được ghi lại, kể lại từ “cảm nhận thông thường” của những người trải qua, đi qua cuộc thảm sát tàn khốc ấy. Có thể chính vì những trải nghiệm riêng ấy, qua sự thụ cảm cá nhân của nhà văn, đã giúp cho tác phẩm dễ tìm được tiếng nói đồng cảm trong lòng bạn đọc.

Không còn là ký sự của thế hệ sinh sau, chưa từng nếm trải trực tiếp nỗi đau chiến tranh như Về từ hành tinh ký ức của Võ Diệu Thanh (hay Đừng kể tên tôi của Phan Thúy Hà), các tập bút ký của các nhà văn được trui rèn từ trong cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam, những Nguyễn Ngọc Tiến (Lính Hà), Đoàn Tuấn (Mùa chinh chiến ấy, Mùa linh cảm), Nguyễn Vũ Điền (Rừng khộp mùa thay lá),… thông qua những trải nghiệm cá nhân, tiếp tục thông tin về cuộc chiến tranh gian khổ và hãi hùng ấy. Về phía nhà xuất bản, tổ chức cho sự hiện diện cùng lúc của từng ấy những tự sự phi hư cấu về cùng một đề tài, chủ đề, nó cho thấy sự ưu tiên lối tiếp cận hiện thực về cuộc chiến tranh này6. Khẳng định tính chính danh, chủ nghĩa nhân đạo, khát vọng hòa bình,… là cảm hứng chủ đạo của các tác phẩm, dù các tác giả không che giấu những tổn thương, mất mát, đau đớn, giằng xé trong tâm tư người lính Việt Nam khi chiến đấu ở bên ngoài Tổ quốc.

4. Sự nổi lên của các tự sự phi hư cấu ở Việt Nam về chủ đề dân tộc cho thấy sự tham dự tích cực của văn học vào các vấn đề dân tộc. Trong một bối cảnh mà nhận thức về văn học còn khá sơ giản ở đông đảo người đọc, thì hư cấu (truyện ngắn, tiểu thuyết) được sử dụng để tự sự lịch sử không đáp ứng được nhu cầu tìm biết của người đọc về tính đích thực của hiện thực được thể hiện. Bản thân những người viết văn, chủ yếu là không chuyên, lại tìm thấy trong những tự sự phi hư cấu này những cách thức gần gũi để kể lại một cách trung thực câu chuyện và hiện thực đã qua, đã nếm trải. Sự trung thực của người viết, sự khách quan của các hiện thực lịch sử, cả hai khi hợp lại, càng tạo nên sự gần gũi, đồng cảm, chia sẻ và thấu hiểu từ người đọc. Ở không gian như thế, khi mà kinh doanh văn hóa không chỉ nắm bắt được thị hiếu công chúng mà còn rất tinh nhạy trong các dự đoán thời tiết chính trị, các công ty tư nhân hay các nhà xuất bản đã nhanh chóng ủng hộ cho một trào lưu văn học khớp nối với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc. Tất nhiên, ở một bộ phận độc giả trung lập hay ở chiều sâu tư duy văn học, việc tìm đến với các tự sự phi hư cấu về các vấn đề dân tộc có thể phát xuất sâu hơn từ nền tảng tâm lý dân tộc, ở khía cạnh họ bị thôi thúc bởi những quy chiếu của đạo đức và trách nhiệm “phía sau phẩm hạnh” tạo nên sự cố kết cộng đồng mà họ thuộc về. Hoặc giản dị hơn, nhưng không vì thế mà ít quan trọng hơn, chịu sự tác động của việc văn học dịch kiến tạo hạng mục trong đa hệ thống văn hóa và văn học Việt Nam đương đại. Gần 20 năm đầu thế kỷ XXI, văn học Việt Nam đã chuyển dịch hai tác giả quan trọng đều dành sự chú ý tới các tự sự về cộng đồng dân tộc và đều được ghi nhận bằng giải thưởng Nobel uy tín: Imre Kertész, nhà văn Hungary giành Nobel văn học 2002 với các tác phẩm về đề tài diệt chủng và holocaust dựa trên những trải nghiệm đời tư; Svetlana Alexievich, nhà văn Belarus viết tiếng Nga giành Nobel văn học 2015, với các ghi chép lấy cảm hứng và chất liệu từ hiện thực do bà điều tra, quan sát.

Như chúng tôi đã vài lần chỉ ra7, có một tiến trình văn học Việt Nam đương đại mà ở đó khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa đang dần thắng thế. Ở thời điểm hiện tại, sự kết hợp giữa các phong trào dân tộc mang màu sắc dân túy và chính sách của tư tưởng “chủ nghĩa dân tộc chính thức”, để mượn lại thuật ngữ của Benedict Anderson, sẽ ngày càng làm gia tăng không khí dân tộc chủ nghĩa ở Việt Nam. Sau sự kiện giàn khoan HD-981, Trung Quốc có vài lần can thiệp tới việc hợp tác thăm dò dầu khí của Việt Nam với đối tác nước ngoài ở biển Đông. Gần đây, vào tháng 7-8/2019, tàu khảo sát Địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam ở bãi Tư Chính, chính quyền Việt Nam mới lên tiếng mạnh mẽ phản đối bằng con đường ngoại giao, thông tin rộng rãi tới dư luận trong nước, và kêu gọi sự ủng hộ của ASEAN và cộng đồng quốc tế. Việc nhà nước cất tiếng nói chính thức, từ kỷ niệm 40 năm chiến tranh biên giới đến những sự kiện nóng hổi ở biển Đông, sẽ cộng hưởng với các phong trào quần chúng, như trào lưu sáng tác văn học nghệ thuật về chủ đề chủ quyền hay các cuộc biểu tình rầm rộ phản đối Trung Quốc trong sự kiện hạ đặt trái phép giàn khoan năm 2014. Trong bối cảnh ấy, văn học bị cuốn vào, và chính văn học cũng góp phần kiến tạo, một mẫu hình chủ nghĩa dân tộc như thế ở Việt Nam đương đại.

Đ.A.D  
(TCSH373/03-2020)

--------------
1. Mạc Ngôn, Trần Trung Hỷ dịch: Ma chiến hữu, Phương Nam & Nxb. Văn học, H., 2007.
2. Bảo Ninh: “Đọc Ma chiến hữu”, trong Tạp bút, Nxb. Trẻ, Tp.HCM., 2015, tr.411-412.
3.Ngoài ra, các tác phẩm này cũng dự vào không khí hồi ức của các tự sự phi hư cấu liên quan đến chiến tranh - như là về một khu gia binh ở Hà Nội (Quân khu Nam Đồng (truyện, Nxb. Trẻ, 2015; tái bản lần thứ 15 năm 2019) của Bình Ca), hay trực tiếp về chiến tranh (Hồi ức lính (tập ký, Nxb. Trẻ, 2017; Giải thưởng hạng mục văn xuôi Hội Nhà văn Hà Nội 2017) của Vũ Công Chiến); Đừng kể tên tôi (tập bút ký, Nxb. Phụ nữ, 2017; tái bản 2018) của Phan Thúy Hà), đều là những tác phẩm rất được bạn đọc quan tâm, tìm đọc.
4. Thu Hiền: “Hàng trăm câu chuyện xúc động ở Gạc Ma - Vòng tròn bất tử”. Zing.vn. (https://news.  zing.vn/hang-tram-cau-chuyen-xuc-dong-o-gac-ma-vong-tron-bat-tu-post856588.html; 2/7/2018); về tâm nguyện và hành trình thực hiện cuốn sách trước khi được chính thức xuất bản, ý kiến của người làm sách, xem Lam Điền (ghi): “Sách Gạc Ma - Vòng tròn bất tử: đoạn trường gian nan”. Tuổi trẻ online. (https:// news.zing.vn/hang-tram-cau-chuyen-xuc-dong-o-gac-ma-vong-tron-bat-tu-post856588.html; 13/3/2016), ý kiến của một số nhà xuất bản và chịu trách nhiệm thẩm định, cấp phép, xem L.Điền – P.Vũ: “Gạc Ma - Vòng tròn bất tử: tên sách quá hay nhưng bản thảo yếu”. Tuổi trẻ online. (https://tuoitre.vn/gac- ma-vong-tron-bat-tu-ten-sach-qua-hay-nhung-ban-thao-yeu-1066510.htm; 13/3/2016), và ý kiến từ phía Tuyên giáo, do ông Vũ Ngọc Hoàng trả lời phỏng vấn khi nghe tin sách không được cấp phép xuất bản vào năm 2016, xem Phạm Vũ (thực hiện): “Gạc Ma: Phải công bố sự thật với nhân dân”. Tuổi trẻ online. (https://tuoitre.vn/gac-ma-phai-cong-bo-su-that-lich-su-voi-nhan-dan-1066492.htm; 13/3/2016)
5. Thiên Điểu: “Tạm dừng phát hành sách Gạc Ma – Vòng tròn bất tử để đính chính, chỉnh sửa”. Tuổi  trẻ online. (https://tuoitre.vn/tam-dung-phat-hanh-sach-gac-ma-vong-tron-bat-tu-de-dinh-chinh-chinh- sua-20180713192324054.htm; 13/7/2018).
6. Cũng chọn đề tài chiến tranh biên giới Tây Nam, nhưng với góc nhìn ngả theo chiều phản chiến, và cũng  từng gây ra những tranh luận sôi nổi khi mới được xuất bản, tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh đã không tái xuất trong dịp kỷ niệm này.
7. Xem thêm Đoàn Ánh Dương: “Những ý hệ của việc đọc: văn học đương đại trong quá khứ đổ bóng”,  Sông Hương, Huế, số 295 (tháng 9/2013); “Từ sự manh nha diễn ngôn tự trị đến sự khuynh loát diễn ngôn chủ nghĩa dân tộc trong văn học”, trong Đỗ Lai Thúy (chủ biên), Những cạnh khía của lịch sử văn học, (Tủ sách Hiểu Việt Nam), Song Thuy Bookstore & Nxb. Hội Nhà văn, H., 2016.  




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.