ĐINH CƯỜNG
(Nhân 100 năm ngày sinh Nguyễn Đỗ Cung 1912-2012)
Chân dung Nguyễn Đỗ Cung
Chúng tôi ra Hà Nội như vậy là rất sớm, tháng 1 năm 1977, hai năm sau ngày đất nước thống nhất, do tổ chức trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế, hiệu trưởng lúc ấy là họa sĩ Vũ Trung Lương (đã từng học lớp vẽ của Nguyễn Đỗ Cung tại Liên khu V, 1948), Vĩnh Phối(1) hiệu trưởng trước năm 1975 làm phó hiệu, trường cử Tôn Thất Văn(2) khoa lụa, và tôi, khoa sơn dầu, cùng trưởng đoàn là họa sĩ Phan Hữu Lượng trong ban tuyên huấn trường, ra nghiên cứu về giáo trình giáo án tại Đại học Mỹ thuật Hà Nội ở đường Yết Kiêu, hay gọi tắt là trường Mỹ thuật Yết Kiêu. Ngoài quyền hiệu trưởng là hoạ sĩ Nguyễn Thụ, người sẽ chính thức làm hiệu trưởng từ 1984 đến 1991, nổi tiếng về tranh lụa, chúng tôi còn gặp hai hoạ sĩ thời Mỹ thuật Đông Dương: Lương Xuân Nhị(3) và Nguyễn Đỗ Cung, hình ảnh họa sĩ Lương Xuân Nhị từ tốn thanh lịch, với bộ complet trắng, đãi chúng tôi bữa ăn trưa đầm ấm tại nhà ông, và họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung với mái tóc, hàm râu ánh bạc, nụ cười hiền, ánh mắt tinh anh, đã gây trong chúng tôi ấn tượng thân kính, cởi mở. Tôi còn giữ đến nay mấy nét phác họa chân dung tôi bằng cây bút máy lấy ra từ túi áo ông, thời gian đã làm màu mực phai nhạt, nhưng tấm lòng của họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung thì tôi luôn nhớ, dưới góc bức vẽ còn ghi: 16.1.77. 29 Hàng Hành, nơi ông ở cùng gia đình, chỉ tám tháng trước khi ông mất, vừa 65 tuổi. Thương tiếc biết bao, một họa sĩ tài ba, uyên bác, luôn muốn cách tân trong các tổ chức về mỹ thuật. Viện trưởng Viện Mỹ thuật Hà Nội và là người có công cải tạo, thành lập Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam năm 1966 mà ông là vị giám đốc đầu tiên. Ông còn là một họa sĩ và vài anh em nữa theo đuổi cái không gian bùng nổ của hội họa lập thể, rồi những tài năng xuất sắc ở thế hệ cuối cùng của trường, như Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái còn đi xa hơn trong bút pháp và quan niệm… (Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật, trang 32). Tôi chú ý và yêu thích ngay từ cái phụ bản, lúc ấy gọi là họa bản, vẽ Từ Hải, khắc gỗ, trong số 11 họa bản khác của các hoạ sĩ danh tiếng: Nguyễn Gia Trí, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Tường Lân, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Phạm Hầu, Lê Văn Đệ, TônThất Đào, Nguyễn Văn Tỵ, Lưu Văn Sìn in trong Tập văn họa kỷ niệm Nguyễn Du do hội Quảng Trị xuất bản năm 1942, với sự ủng hộ của các hội: Khai trí tiến đức, Khuyến học, Sampic và Trí-Tri. Một tập sách được chăm sóc thật kỹ từ hình thức đến nội dung, việc biên tập do Đào Duy Anh, trình bày do họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung.
Những năm này ông còn cùng Tô Tử (Tô Ngọc Vân) viết bài về nghệ thuật trên báo Thanh Nghị, trước đó đã vẽ bìa cho báo Ích Hữu và viết trên Tinh Hoa, Hà Nội Báo, Ngày Nay… Có lần ông muốn tranh luận cùng L.Bezacier(4), một kiến trúc sư chuyển sang khảo cổ học, đến Hà Nội từ năm 1935, thành viên Trường Viễn Đông Bác Cổ, trên cơ sở các di vật ở chùa Phật Tích, nhân đọc quyển Các tiểu luận về Mỹ thuật Annam của Bezacier. Bài mang tên “Nhân đọc quyển Essais sur l’Art Annamite: Mỹ Thuật Đại La hay Mỹ Thuật Lý” (Thanh Nghị số 96 ngày 16.12.1944, in lại trong kỷ yếu Bảo tàng Mỹ thuật số 4.1986)… “Tôi thành thực tán thành phương pháp làm việc rất khoa học của Trường Viễn Đông Bác Cổ. Chính vì tinh thần khoa học đó mà tôi không đồng ý với ông Louis Bezacier những khi ông tự lấy linh khiếu riêng mà bình phẩm cái này đẹp hơn cái kia, hoặc cái này không cùng một lối với cái kia một cách quá gọn ghẽ”... Ông muốn chứng minh phong cách mỹ thuật Lý trong giai đoạn Phật Tích là óng chuốt và thanh tú khác hẳn với mỹ thuật Đường, để chứng minh những điều đó, ông đã phải mò mẫm nghiên cứu một cánh nghiêm túc và lạc quan trên tinh thần dân tộc. L. Bezasier im lặng. Theo Đặng Tiến, chính L. Bezacier là người luôn đề cao nghệ thuật cổ Việt Nam và đã hết lòng bảo quản. Là người luôn ưu tư cho nghệ thuật nước nhà, Nguyễn Đỗ Cung đã đứng tên thay mặt các bạn họa sĩ: Lưu Văn Sìn, Trần Văn Cẩn, Hoàng Lập Ngôn, Lương Xuân Nhị và Nguyễn Khang viết bài Những sự cải cách của trường Mỹ Thuật Đông Dương (đăng báo Ngày nay, số 144 ngày 7.1.1939) lên tiếng công khai chống đối vị giám đốc mới Evariste Jonchère (lên thay Victor Tardieu, giám đốc trường Mỹ Thuật Đông Dương - École des Beaux- Arts de l’Indochine - qua đời năm 1937) muốn đổi trường Mỹ thuật ra trường Mỹ nghệ.
Với những họa sĩ tài năng thì ông đã hết lời ca ngợi, trên Thanh Nghị (số 79, ngày 19.8.1944) bài ghi nhận về sơn mài “Nguyễn Gia Trí (giai đoạn 1939-1944)” nhân cuộc triển lãm năm 1944 tại Phòng Thông tin Hà Nội là một bài bày tỏ hết nỗi hân hoan, mối đồng cảm, chỉ cho ta thấy sự huyền diệu, sang trọng trong sơn mài của Nguyễn Gia Trí, một họa sĩ mà ông cho là thật kỳ dị và thông thái. Thái Bá Vân(5) một cây bút phê bình mỹ thuật hiểu biết và thật sự yêu mến cái đẹp, nói như Lê Đạt, đã rất gần gũi với Nguyễn Đỗ Cung: “Được sống và làm việc với ông một thời, mười lăm năm, đôi khi được ông coi là bạn, tôi muốn nói rằng, không hiểu vì sao, đến hội nghị này, điều tôi nghĩ ngợi nhiều nhất về ông không phải là tranh vẽ hay bài viết của ông để lại, mà chính là nhân cách Nguyễn Đỗ Cung vậy” (Tham luận ở Hội nghị khoa học: Nguyễn Đỗ Cung, họa sĩ, nhà nghiên cứu mỹ thuật. Hà Nội 16 & 17.12.1983, in lại trong Thái Bá Vân Tiếp xúc với nghệ thuật, Viện Mỹ thuật Việt Nam xuất bản 1997, trang 193). Tôi luôn quý mến Thái Bá Vân và nay là Bùi Như Hương đã đi tiếp nối ông ở Viện Mỹ thuật Ô Chợ Dừa Hà Nội, với những nhận định, tiếp xúc với nghệ thuật tài hoa, sâu sắc, và trên hết là nhân cách. Đúng vậy. Ông vốn xuất thân trong một gia đình nho học, khoa bảng, thân sinh là Nguyễn Đỗ Mục, tên tự là Trọng Hữu, sinh năm 1866 tại Hà Tây, đậu tú tài năm Kỷ Dậu đời vua Duy Tân (1909) mất năm 1951 tại Thái Nguyên, viết văn, dịch sách cho các báo Đông Dương tạp chí, Trung Bắc tân văn… Nổi tiếng với các bản dịch tiểu thuyết cổ Trung Quốc… như Tây sương ký, Đông Châu liệt quốc. Ông còn dịch Vô gia đình (Sans famille) của Hector Malot. Nguyễn Đỗ Cung sinh tháng 2 năm 1912 tại quê ngoại, mẹ là Đỗ Thị Khiêm, làng Xuân Tào, huyện Từ Liêm, mất ngày 22.9.1977, an táng tại nghĩa trang Văn Điển Hà Nội. Tốt nghiệp trường Mỹ thuật Đông Dương khoá V (1929- 1934). Huế là nơi ghé đến của bao nghệ sĩ nổi tiếng thời ấy, cũng như Mai Trung Thứ(6), ông đã là giáo sư dạy hội họa tại Huế rất sớm, đã từng sống ở đường Âm Hồn trong Thành Nội, từ năm 1942 đến 1944, cùng thời với Tôn Thất Đào, thân thiết với nhà văn nhà sử học Đào Duy Anh, nhạc sĩ và nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc Nguyễn Hữu Ba… thời gian này ông còn làm Xuân thu nhã tập (Nguyễn Lương Ngọc xuất bản, Hà Nội 1942) cùng với Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Xuân Khoát, được xem là một tập san tiên phong, với tuyên ngôn muốn làm mới văn chương, âm nhạc, hội họa… Đoàn Phú Tứ với bài thơ Màu thời gian, Nguyễn Xuân Khoát phổ nhạc, thường được nhắc đến: Sớm nay tiếng chim thanh Trong gió xanh Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình… Sau đó ông ra Hà Nội tham gia đoàn quân Nam Tiến thời kháng chiến chống Pháp, cùng đi với Xuân Diệu, đến Tuy Hòa, ở lại chiến đấu tại Liên Khu V, vẽ nhiều tranh phác thảo, cũng như sau này ở Việt Bắc, vẽ, nghiên cứu và lãnh đạo văn nghệ. Làm đại biểu quốc hội khóa 1 (1946-1959) của tỉnh Hà Đông. Một đêm mùa hè, tháng 8.2011, Huế, tôi cùng Bửu Ý ghé thăm Phủ Bội Trân trên đồi Thiên An (hay lầm với tiến sĩ lịch sử, phê bình mỹ thuật - Huỳnh Bội Trân - Beattie hiện ở Sydney, Úc), chị là người mở gallery tranh rất sớm và thành công ở Huế, còn là hoạ sĩ. Chị đã cho chúng tôi xem bộ sưu tập các bản vẽ phác thảo bằng bột màu tranh Nguyễn Đỗ Cung rất quý, làm nhớ những tranh màu dầu khổ lớn của ông mà tôi được xem sau 1975, với không gian tranh thoáng, vẽ màu phẳng, bỏ bóng tối bóng ngã, trên những mảng màu nguyên chất, biểu thị tính thẩm mỹ cao, rất mới so với thế hệ ông. Tranh ông có hấp lực truyền thụ của một người nghệ sĩ, một người Thầy. Mới đó mà đã trăm năm sinh nhật ông. Virginia, 11.2011 Đ.C (SH275/1-12) --------------------------- (1) Vĩnh Phối, sinh 3.8.1938 Huế, tốt nghiệp trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định 1958, du học tại Ý 1961-1966 Accademia di Belle Arti di Roma. (2) Tôn Thất Văn, pháp danh Liễu Thoát, sinh năm 1939 Huế, tối nghiệp khóa 1 trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế 1957-1961, mất 24.7.2006 ở Sài Gòn. (3) Lương Xuân Nhị 1913 - 2006 Hà Nội, tốt nhiệp trường Mỹ thuật Đông Dương khoá 7 (1932-1937). (4) Louis Bezacier sinh năm 1906, mất 19.6.1966; tác giả Essais sur 1‘Art Annamite, xuất bản năm1944, sau tái bản đổi tên thành L’Art Vietnamien, Paris, ed. de l’ Union francaise 1955, Asie du Sud-Est,Tome II, Le Viêt- Nam, éd. A. et J. Picard. Paris 1972. (5) Thái Bá Vân, sinh năm 1934 Nghệ An, mất 11.4. 1999 ở Hà Nội, tác giả: Tiếp xúc với nghê thuật, Viện Mỹ Thuật Việt Nam xuất bản 1998. (6) Mai Trung Thứ sau đổi Mai Thứ 1906 - 1980, tốt nghiệp khóa đầu tiên trường Mỹ thuật Đông Dương 1925-1930. Tranh, ảnh trích từ các sách: - Tập Văn Họa Kỷ Niệm Nguyễn Du, Hội Quảng Trị xuất bản, in xong ngày 10 Septembre 1942 tại nhà in Ngày Nay 80 đường Quan Thánh Hà Nội - Nguyễn Đỗ Cung - Chu Quang Trứ, Khương Huân, Nguyễn Trân - Nhà xuất bản Văn Hoá 1987. - Mỹ Thuật Việt Nam Hiện Đại, Trường Đại Học Mỹ Thuật Hà Nội, Viện Mỹ Thuật xuất bản 2005 - Vietnamese Painting from tradition to modernity - Corinne de Ménonville - Les Éditions d’Art et d’ Histoire 2003. |
BẠCH DIỆP
"Có lẽ đau khổ lại tốt cho con người. Nhà nghệ sĩ có thể làm gì nếu anh ta hạnh phúc? Anh ta liệu có muốn làm bất cứ điều gì không? Nghệ thuật, rốt cuộc chính là chống lại sự khắc nghiệt của cuộc đời".
ĐINH CƯỜNG
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh
PHAN THANH BÌNH
Trong lịch sử mỹ thuật thế giới, từ Âu châu đến Á châu đã ghi nhận nhiều hoàng đế từng cầm bút vẽ, nặn tượng và không ít bảo tàng mỹ thuật ở các quốc gia có lưu giữ những tác phẩm mỹ thuật mà tác giả là những vị vua danh tiếng.
KHẢ HÂN
Là một trong những họa sĩ chủ soái của trường phái Ấn tượng nổi tiếng với phong cách làm việc ngoài trời một cách nhất quán, Monet đã để lại rất nhiều bức vẽ đầy ấn tượng về băng, tuyết và sương giá.
LINH PHƯƠNG
Một lần nữa có thể thấy rằng, mỹ thuật Huế trong dòng chảy của mình, không ồn ào mà lại âm thầm trong việc theo đuổi những tiếng gọi nghệ thuật thuộc nhiều kiểu dạng ngôn ngữ nghệ thuật khác nhau để có được hiệu quả thẩm mỹ tốt nhất.
PHƯỢNG LÂM
Họa sĩ Léopold Franckowiak, đến nay ông đã có bảy năm sống ở Việt Nam. Có thể nói, Việt Nam là nơi gợi cảm hứng sáng tác mạnh mẽ nhất với ông trong thời điểm này.
TRẦN DUY MINH
Trong hội họa, mùa thu là mùa quyến rũ với các họa sĩ, bởi mùa thu là mùa của thi tính, của cái đẹp và cũng là mùa của nỗi buồn. Mùa thu là mùa của sự úa tàn, của những phôi pha, của những gì kết thúc nhưng đó cũng là thời điểm để khởi đầu cho một hành trình mới của sự vật.
LÝ HỮU NGUYÊN
Nguyễn Trọng Khôi là họa sĩ song hành cả hiện thực và trừu tượng.
VŨ LINH
Từ khởi thủy của nghệ thuật tạo hình, động vật đã là một đề tài được lựa chọn. Những hình vẽ sơ khai nhất được tìm thấy trong các hang động, những hình thù khắc trên đá, trên xương động vật, trên các dụng cụ bằng đồng...
TRẦN DIỄM THY
Trong nghệ thuật tạo hình trên thế giới cũng như ở Việt Nam, hình tượng trẻ con luôn được xem như là một nguồn mạch của sáng tạo nghệ thuật.
LÊ TRIỀU HẢI
Nếu như nghệ thuật hiện đại có những cách thức đi ngược chiều với quan niệm nghệ thuật là sự mô phỏng của Plato và Aristotle, thì ngày nay, trào lưu nghệ thuật cực thực lại hướng tới mô phỏng ngoại giới một cách tinh vi, nếu không muốn nói là đẩy tới cực đoan nhất có thể trong việc mô phỏng vật thể.
NGUYỄN THỊ HÒA
Huế những năm đầu thế kỷ XX, Nhà nước phong kiến triều Nguyễn đã ban hành nhiều chính sách, trong đó có chính sách văn hóa hướng tới nhiều khía cạnh của đời sống xã hội như văn chương nghệ thuật, giáo dục, giao lưu, tiếp xúc văn hóa, bảo tồn di sản… nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa nghệ thuật của cộng đồng, với sự xuất hiện trào lưu học thuật tân tiến của châu Âu, mỹ thuật được giao lưu biểu hiện qua các hoạt động và sáng tác nghệ thuật.
ĐẶNG TRIỆU VĂN
Như tên gọi của nó, trào lưu tối giản trong nghệ thuật hướng tới tiết chế mọi yếu tố cấu nên tác phẩm nghệ thuật.
NGUYỄN HOÀNG VY
Từ khi Phân tâm học của Freud ra đời, người ta mới có thể lý giải được phần nào nguyên do xui khiến người nghệ sĩ lao vào sáng tạo nghệ thuật, có một sức mạnh to lớn từ vô thức khiến người nghệ sĩ mộng mơ, đó là sức mạnh bất khả từ chối.
VŨ LINH
Với hội họa Việt Nam, sơn mài là chất liệu không xa lạ. Những tên tuổi lớn từng thành công trên chất liệu sơn mài phải kể đến như: Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Sáng, Nguyễn Đỗ Cung, Phan Kế An, Nguyễn Tư Nghiêm...
TRÚC LÂM
Trong văn hóa nhân loại, lợn như là một biểu tượng phổ quát. Lợn được xem là tổ phụ sáng lập một trong bốn đẳng cấp trong xã hội Meslanesie. Nữ thần trời và mẹ vĩnh cửu của các tinh tú ở Ai Cập cổ đại lại thường được tạo hình trên các bùa đeo với những họa tiết của lợn nái đang cho đàn con bú.
VŨ PHƯƠNG
Trong dòng nghệ thuật biểu ý, dựa trên ngôn ngữ biểu hiện ở Huế, thì Trương Thế Linh nổi lên như một hiện tượng tiêu biểu.
KHẢ HÂN
Francesco Clemente sinh năm 1952, ở Naples, Italy. Ông xuất hiện vào thời điểm khi mà Thế chiến II vẫn còn là một ký ức dai dẳng khắc sâu thành những vết nứt trong tâm thức sáng tạo của cộng đồng nghệ sĩ ở dải đất ven vùng biển Địa Trung Hải này.
TRẦN PHƯƠNG ĐÔNG
Lê Kinh Tài là một trong những nghệ sĩ đương đại rất thành công ở Việt Nam hiện nay. Sự thành công được minh chứng không chỉ ở số lượng tác phẩm lớn, những tìm tòi nghệ thuật không mệt mỏi mà cả ở giá tranh của ông trên thị trường quốc tế.