Nhớ Trường Sơn xanh thắm

08:11 29/03/2023

NGUYỄN QUANG HÀ
                    Hồi ký

Mùa mưa 1968 là mùa mưa nghiệt ngã nhất. Sau trận càn lớn chưa từng có lên miền tây Thừa Thiên, địch tiếp tục phong tỏa miền núi bằng biệt kích.

Ảnh: tư liệu

Biết bộ đội giải phóng phải bám những nơi có nước để sống, máy bay trực thăng loại u-ti-ti bay dọc các khe suối, lên tận ngọn nguồn, phát hiện được đường xuống suối, chúng mò tới tận lán ở của bộ đội phóng rốc két xuống! Còn tất cả mọi ngả đường rừng chúng đều tung biệt kích xuống, chỗ nào nghi ngờ có bộ đội đóng quân, chúng cho máy bay rải chất độc màu da cam phát quang, và thả "cây nhiệt đới" một loại máy thu tiếng động để phát hiện dấu tích của bộ đội ta.

Lộc bị biệt kích bắn chết ở dốc công sự. Nhu bị biệt kích đuổi sau lưng bắn tan gùi gạo sau lưng. Không có gùi gạo Nhu đã chết gục ngay sau băng AR 15 ấy! Căn cứ địa của Phong Điền bị biệt kích xộc vào tận nhà, chỉ kịp chạy người. Anh Chương, Nguyễn Viết Phong, Lầu, Thủy dính pháo ngay đường đổ dốc xuống sông Hai Nhánh. Vừa nghe pháo đề-pa, chỉ kịp nằm bẹp xuống, quả pháo nổ giữa đường. Anh Chương bị một mảnh pháo vào đầu, mảnh rất nhỏ, đầu chỉ rỉ ra một vết máu không bằng máu trong bụng một con muỗi. Đưa ngay anh về trạm xá Nam. Đêm ấy anh chết!

Mọi nẻo đường của chiến khu đều là mọi nẻo đường máu lửa. Lương thực hết. Trời thì mưa dầm đề. Chưa bao giờ rừng Thừa Thiên có những trận mưa dai dẳng thế. Hai mươi mốt ngày chưa ngớt mưa kéo sợi trước mái tranh lấy vài tiếng đồng hồ. Tất cả các con suối trong rừng dềnh lên, nước chảy ào ào. Đến nỗi ban tham mưu với ban chính trị ở hai bên bờ suối chỉ liên lạc được với nhau bằng điện thoại. Không cắm trại mà như cắm trại trăm phần trăm; chỉ hái rau, kiếm củi quanh nhà.

Sông Hai Nhánh nước đầy không thể bơi qua được để về đồng bằng mua gạo. Tiêu chuẩn ăn hàng ngày giảm dần. Từ hai lon một ngày, xuống lon rưỡi, một lon, rồi nửa lon. Bù vào sự thiếu hụt của lương thực bằng rau và củ rừng. Ở Tà Rầu, Tà Vò bữa sáng ăn rau tàu bay luộc chấm muối. Nhà bếp phát cho mỗi người một vắt cơm nửa lon gạo. Đó là tiêu chuẩn của bữa trưa. Ai về các đơn vị công tác cũng chỉ vắt cơm ấy mang theo. Tối về, tất cả ăn hạt sót luộc.

Khi cơ quan quay về khe Rùa thì có thêm một thứ thực phẩm là thịt rùa, có lẽ cái tên khe Rùa được gọi từ thực tế đặc sản ấy! Gốc cây nào cũng có rùa. Rùa không lớn, chỉ hai cân mỗi con là cùng. Rùa có bộ mai cong, vàng ươm, rất đẹp. Đặt ba hòn đá, lật ngửa rùa lên, đốt lửa bên dưới. Rùa tha hồ thò cổ, thò đuôi, thò chân ngo ngoe nhưng không thể nào lật úp xuống được. Khi lớp thịt dính vào mai đã chín mới lóc thịt ra, cắt thành miếng, trộn với muối ớt, giã thêm một ít gừng rừng cho vào. Món ăn không ngả màu loại món nào cả. Nhưng thèm thịt, ăn ngon lạ lùng.

Giai đoạn này rau quả rừng được khai thác triệt để. Lá tai voi, lá môn vót, củ môn vót. Gọi là củ nhưng chỉ bằng ngón tay út. Tuy vậy, bẻ ra cũng thấy lõi củ có màu vàng, củ có màu vàng là củ đã già, nấu lên ăn bở và bùi. Cọng môn thục thơm, nhưng ăn như ăn rơm. Tước vỏ, chẻ cọng ra, cắt từng lóng bằng đốt ngón tay, cứ thế trộn với muối ớt ăn. Miễn là no bụng. Thân cây dương xỉ đẽo vỏ đi, phần lõi nạo ra, độn với cơm. Trông rất giống hạt cơm, nhưng nhai như bấc. Củ móng trâu và củ nâu được tận dụng tới cùng. Luộc lần thứ nhất, lần thứ hai đổ nước đi. Lần thứ ba luộc bằng nước tro, khử hết chất độc. Xong đem ngâm xuống suối một đêm. Lại luộc tiếp lần thứ tư. Ăn nhạt thếch, không có mùi vị gì. Song có cảm giác cứ gây gây ở cổ. Có người không chịu được, nôn ra hết.

Loại dễ ăn nhất có lẽ là nõn cây đoác. Cây đoác lớn như cây dừa. Rừng Thừa Thiên rất nhiều loại cây này, lúc đầu không biết chặt, đẵn gốc cho cây đổ xuống. Thế là chịu. Bởi cây rất nặng, không thể vần qua vần lại được để chặt lấy cái nõn. Sau phải học tập cách của đồng bào dân tộc. Tốt nhất tìm được cây ngang ngực. Nếu không, phải là cây cao vài mét là cùng. Loại cây này phần nõn rất mập. Trước tiên phải mài cho cây rựa thật sắc. Tàu lá đoác cứng, có thể đứng trên đó không gẫy. Đầu tiên chặt phá. Gần giống nghĩa với phá phách. Tìm lá thứ bảy tính từ lá búp trở xuống. Chặt bóc từng tàu một. Gỡ cho hết bẹ lá ra, ta được phần nõn. Những cây đoác to mập, nõn cũng to, năm bảy cân là thường. Phần già, hơi xơ thì làm dưa. Phần nõn mềm chặt miếng to hầm kỹ, ăn ngon như những loại khoai hảo hạng. Thậm chí đi ngang đường đói quá, ăn sống cũng được, giống như ăn khoai lang sống vậy.

Người dân tộc còn làm rượu đoác uống ngon như bia, quả đoác luộc chín, trong có nhân như bột lọc. Thú nhất là được ăn sâu đoác. Cây đoác đã chặt nõn. Phần giáp nõn thối đi. Có một loại bọ rừng cánh cứng như cánh cam, đẻ trứng vào đó. Trứng nở thành sâu, sâu ăn chất hoai ra của thân đoác mềm, cứ thế lớn dần. Đi qua những cây đoác đã chặt cũ, thấy phía trên nổi bong bóng, ấy là sâu đoác thở đấy. Có khi tìm trong đó được cả lon sâu đoác, có con to bằng ngón tay cái. Đen rửa sạch, cho vào bếp nướng, chín mang ra ăn vừa béo, vừa bùi, ngon hơn được ăn thịt lợn nhiều.

Hướng về đồng bằng thì gặp nước lũ và bọn địch nống lên chặn đường. Quay lại phía sau thì giật mình vì một thảm họa. Mười lăm tấn gạo ngoài Bắc chuyên chở vào, người phụ trách của hậu cần quân khu chưa quen thuộc chiến trường nên dựng sạp, lợp mái, chất gạo ngay bên bờ sông A Sáp. Khi lũ dâng lên, nước đã cuốn trôi tất cả mười lăm tấn gạo quân khu chi viện cho Thừa Thiên. Dù người hậu cần sau bị kỷ luật, nhưng cái đói kinh hoàng thì chiến trường Thừa Thiên phải hứng chịu.

Thiếu lương thực, Thành đội Huế phải đưa một lực lượng lớn quân đội ra tận Mường Noòng để sống tạm qua mùa mưa. Lực lượng chủ chốt còn lại phải lùi lại phía sau. Từ khe Rùa lui về ngã ba Voi gần ngay Mụ Nú, rồi vào A Te, sau cũng có thời gian phải ra tận 54, 52 là hai binh trạm sát ngay gần đường tuyến. Ở đây có đồng bào. Ngày ngày vào các bản dân tộc xin sắn. Đồng bào Ka Tu lúc này chưa có khái niệm gì về cân lạng. Nhưng sẵn sàng giúp đỡ bộ đội. Có nhiều gia đình giao rẫy sắn cho giải phóng, kiếm củ rừng ăn.

Xin sắn của đồng bào rất vui. Thỏa thuận, mỗi ngày xã Hương Hữu cho bộ đội mười gùi. Mười cân khoác trên vai cũng một gùi, mà một tạ trên lưng cũng một gùi. Lính thành đội rất ma lanh, cho đan những cái gùi thật to, và cử những người thật khoẻ vào rẫy xin sắn, xếp sao cho gùi vừa đầy, vừa nhiều. Người đi gùi phải thật cố gắng, miễn sao đưa gùi ra được ngoài hàng rào của rẫy sắn là được. Mỗi gùi như vậy có khi nặng hơn một tạ. Đã có anh em đợi sẵn bên ngoài. Thường mười gùi sắn lấy ở rẫy ra, phải ba chục người mới gùi hết. Lúc ấy thấy sắn, bộ đội mắt đã sáng ngời.

Nhưng ở chiến trường, giai đoạn này trong hàng lương thực thực phẩm quý nhất là muối. Đói không nhấc nổi chân, nhưng ngậm hạt muối, muối tan hết trong miệng đã thấy gân cốt cứng lại, đi nhúc nhắc được liền. Không thể nào quên được bàn tay già làng run run chìa ra trước mặt chúng tôi: "Các con có muối cho bố mấy hạt để bố bồi dưỡng!" Mặt thành đội trưởng Thân Trọng Một đanh lại, hai mắt rưng rưng, rồi nước mắt tràn ra, từng hạt từng hạt âm thầm lăn trên hai gò má chính là ở cái phút ấy. Ngay hôm sau ông quyết định cử một tiểu đội lên quân khu, một tiểu đội xuống đồng bằng mua muối về. Ông nói: "lúc này có muối là có tất cả"! Nhớ lại những kỷ niệm cũ, khi bộ đội đi tập kết hẹn hai năm tổng tuyển cử thống nhất đất nước sẽ trở về, chính quyền đã chuẩn bị cho đồng bào miền núi muối dùng đủ hai năm, nhưng do không biết bảo quản, ngay mùa mưa năm thứ nhất muối đã chảy thành nước hết. Đồng bào bị đói muối ê ẩm. Khi có muối về, để dân quý trọng hạt muối, Thân Trọng Một không cho không, ông lấy muối để đổi sắn, đổi đu đủ, cả pháo cho đồng bào. Bốn chữ "Hạt muối cụ Hồ" đã trở thành một thành ngữ trên dải Trường Sơn này.

Để tăng cường thực phẩm, giữ sức khỏe cho lính tráng, Thân Trọng Một quyết định điều một tổ năm người của trung đội đánh rừng A Lơn, do Cu Đen làm tổ trưởng lên thành đội nhận nhiệm vụ khẩn cấp: đi săn thú rừng để nuôi quân.

Sóc, mang, khỉ, dôộc không kể. Đầu tiên chưa quen, nhìn con dôộc làm lông xong, trắng hếu như một đứa trẻ con, khi ăn nghĩ mà ghê ghê. Nhưng chỉ mấy ngày sau đã có thể cầm cả cái tay vạt từng ngón, hay cầm cái đầu khi đã hầm chín nhưng còn cả tai, cả mũi, cắn ăn bình thường.

Nhưng vui nhất là những ngày tổ săn rừng của Đen bắn được voi. Điện thoại tíu tít từ cơ quan tham mưu gọi về các đơn vị. Chỉ một giờ đồng hồ sau, lính từ các nẻo rừng mang dao, đeo gùi về khe nước Rỉ. Tất cả đổ về chỗ con voi chết. Con voi thật to, phải đến mấy tấn thịt. Cặp vòi cong đâm xuống đất bất lực. Một viên đạn xuyên qua tai nó. Máu ở đó đang còn rỉ ra. Nhìn con voi, như một hòn đá mồ côi khổng lồ.

Người xúm quanh con voi như kiến. Nhưng dao găm chịu, dao rựa cũng chịu. Đến đạn cũng chẳng ăn nhằm gì với da voi nữa là. Tác dụng nhất là chiếc liềm. Chọc thủng một lỗ, rồi lấy liềm cưa da voi, lật ra từng mảng. Có lật được da mới xẻo được thịt. Đế voi, vòi voi là hai thứ ngon nhất dành cho người bắn được. Còn thịt ai lấy được bao nhiêu cứ lấy, tha hồ. Gùi lớn gùi nhỏ kìn kịt đưa về.

Ở bếp cơ quan tham mưu thành đội, anh Đặng là chính trị hiệp lý viên cơ quan, quyết định khao lính một bữa no, ăn toàn thịt voi. Cứ đưa soong vào, chị nuôi xúc cho một xẻng là đầy. Ai còn lỏng bụng được xin thêm. Ăn kỳ no thì thôi. Thịt voi hiền lắm. Ăn mấy cũng không đau bụng đau bão gì. Vậy mà các bếp nhỏ của các ban còn xuống xin thêm thịt sống về nướng với nhau xì xụp suốt đêm.

Cùng với muối, rau rừng, thịt rừng, sắn rẫy Thành đội cũng đã đi qua được mùa mưa năm 68. Từ 69 trở đi, các mặt trận lại mở ra. Tình hình chiến trường bước sang một giai đoạn mới. Nhưng mùa mưa 68 chẳng ai quên.

Khi cơ quan tham mưu về đóng ở Chà Tang, trên đỉnh dãy núi Tre Linh. Tết đến, cơ quan cố gắng thu gom một số quần áo, đổi được một con heo chừng ba chục cân. Lính mừng lắm. Đề nghị đừng chia làm gì. Cứ để anh em được ăn một bữa chiều ba mươi. Thịt toàn luộc bày ra trông cũng kha khá! Vậy mà vèo một cái đã ăn hết, nhẵn như chùi.

Thành đội trưởng rất vui, ông cười hề hề, nói một câu rất ruột gan:

- Chỉ riêng việc ăn môn thục, bám trụ được mùa mưa này, mỗi đứa chúng ta có thể tự vỗ ngực mình mà nói rằng: ta đã lập được một kỳ tích anh hùng trên mảnh đất Thừa Thiên này.

Sang ngày mồng một hết thịt, chúng tôi lại ăn sắn. Ngày mồng hai đã lại ra quân. Cũng có thể gọi đó là một cái Tết nhớ đời.

N.Q.H
(TCSH96/02-1997)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHẠM HỮU THU
           Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12

    “Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).

  • TRẦN THỊ KIÊN TRINH

    Mùa hè năm nay tôi có dịp trở lại Sài Gòn. Thành phố với bao đổi thay nhưng tôi chưa kịp nhận thấy hết bởi thời gian tôi lưu lại Sài Gòn quá ngắn ngủi.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Cũng lạ cho cái xứ Huế của tôi, cái chi cũng khác hơn thiên hạ. Nắng thì nắng cháy da phỏng trán, mưa thì mưa thúi đất thúi đai, dầm dề không dứt. Vài ba năm lại một trận lụt, trận bão to đùng.

  • BÙI KIM CHI

    “Tháng 7 nước nhảy lên bờ”. Mà lên bờ thiệt. Mưa. Mưa. Mưa… kéo dài lê thê. Lúc đầu nhỏ sau lớn dần. Nặng hạt. Xối xả. Cây cối trong vườn ngả nghiêng theo mưa và gió. Cây Lựu trước sân nhà tôi tơi tả. Trời tối dần. Mưa càng lúc càng to. Ào ào như thác đổ. Mưa suốt đêm. Sấm đất cuốn vào mưa. Ầm ầm. Ào ào. Âm thanh rộn rã…

  • Khi những giọt mưa ngâu tháng bảy bất ngờ trở về, làm xao động cả bầu trời mệt mỏi đang chìm lặng trong lòng sông Hương, Huế bỗng rùng mình chợt tỉnh cơn mê mùa hạ. Đó cũng là thời khắc mùa Vu lan đang về trên đất trời cố đô.

  • Hồi còn học ở Trường Đại học Sư phạm Huế, tôi có hai người bạn, hợp thành một nhóm, thường uống rượu với nhau khi vui cũng như khi buồn.

  • LTS: Tác giả của câu chuyện dưới đây, sinh ra và lớn lên ở làng quê Triều Sơn Nam, xã Hương Vinh, Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Anh sinh ra trong sự oan nghiệt khủng khiếp của cuộc sống khi buổi sáng mẹ anh quằn quại nghe tin đau xé mất chồng, buổi chiều mẹ đón nhận tiếng khóc chào đời của anh.

  • NGUYỄN LỆ BA

    Gia phả họ Nguyễn Quang ghi chép, tổ tiên chúng tôi là những người đã ra đi từ đất Huế. Thuở dong buồm về phương Nam đi tìm đất mới, những lưu dân đầu tiên đến dựng làng lập ấp trên vùng sông nước quê tôi chỉ vỏn vẹn vài dòng họ với đôi ba chục con người.

  • BÙI KIM CHI

    Đã có một lần tôi được trở về thăm Huế vào một mùa trăng. Cảnh vật thiên nhiên trời ban riêng cho Huế làm Huế duyên dáng và đẹp lạ lùng vào những đêm trăng. Trăng Huế vì thế mà có nét đẹp rất riêng, là lạ, duyên dáng, lộng lẫy và quyến rũ trong phong cảnh vừa thơ, vừa duyên và lãng mạn của trời đất Huế về đêm.

  • NHÂN KỶ NIỆM 50 NĂM BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC VỊ PHÁP THIÊU THÂN

    NGUYỄN BỘI NHIÊN

  • Một nam sinh như tôi lại học trường nữ trung học Đồng Khánh (trường THPT Hai Bà Trưng hiện nay), có thể một số người cho đó là chuyện lạ đời. Nhưng đấy lại là sự thật 100%! Tuy tôi chỉ học ở trường Đồng Khánh một năm lớp năm bậc tiểu học (bây giờ là lớp 1) vào khoảng những năm cuối thập kỷ 40 đầu thập kỷ 50 của thế kỷ trước. Nhưng không hiểu tại sao tôi lại còn nhớ nhiều những kỷ niệm về năm học đầu đời ấy mãi tới tận bây giờ.

  • TRIỆU BÔN
             Hồi ký

    Mùa mưa năm 1968 ở mặt trận đường Chín - Khe Sanh, trung đoàn 246 chúng tôi được gọi đùa là trung đoàn hai bốn đói. Ngày ngày chúng tôi sống bằng ba nguồn chính: thịt thú rừng, rau môn thục, và đỗ xanh.

  • NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi niềm đau đáu về quê hương, nơi mình được sinh ra và chắt chiu nuôi dưỡng trong từng hạt cát, từng trận mưa dầm dề thúi trời thúi đất hay nắng lửa trên cồn khô cát cháy, mà những con người ở đây sẵn mang một tấm lòng lồng lộng gió trời trải đi khắp muôn phương...

  • BÙI KIM CHI

    Tôi đang đứng ở đây. Bến xe đò Đông Ba của thế kỷ trước. Bùi ngùi. Xúc động. Bến xe đã không còn. Thật buồn khi nơi này đã vắng bóng những chiếc xe đò dân dã, thân thương thuở ấy cùng những tà áo trắng học trò dung dị với giọng Huế trong trẻo ơi ới gọi nhau lên xe kẻo trễ giờ học.

  • NGUYỄN VĂN UÔNG
                         Tùy bút

    Tuổi càng cao càng có nhiều nỗi nhớ vu vơ. Tôi đang trong tình trạng đó. Nhớ cồn cào đến xao xuyến là mỗi dịp xuân về: Nhớ Tết quê tôi. Nhớ tuổi thơ tôi và nhiều nỗi nhớ khác nữa.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Thuở nhỏ, tôi thường trốn ngủ trưa đi nghe hát vè. Ở Huế lúc ấy gọi là nói vè, như theo tôi phải gọi là hát vè thì đúng hơn, bởi người hát có bài có bản, có giai điệu, trầm bổng, có cả nhạc cụ.

  • HỒ XUÂN MÃN
    (Nguyên UVTƯ Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế)

    Năm 1973, để chuẩn bị cho ký kết hiệp định Paris, Khu ủy và Quân khu Trị Thiên - Huế chủ trương tổ chức các lực lượng (bao gồm cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) tổ chức đánh chiếm các căn cứ và phân chi khu địch để giành đất, nắm dân, cắm cờ giành quyền làm chủ.

  • TRẦN THỊ NHƯ MÂN

    Tôi sinh ra trong gia đình quan lại, đã mấy đời làm quan với triều đình Huế(1). Khi tôi lớn lên thì chế độ cai trị của thực dân Pháp đã bước vào giai đoạn ổn định sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Chiếc ngai vàng của nhà Nguyễn từ nay trở đi chắc không còn phải chịu những cơn sóng gió đáng kể chi nữa.

  • HUY CẬN - XUÂN DIỆU
          Trích "Hồi ký song đôi"

    Tháng 8 năm 1928 cậu tôi được lệnh của Sở học chính Trung kỳ đổi về Huế làm hiệu trường trường tiểu học Queignec ở phố Đông Ba.

  • LÊ QUANG KẾT
             Bông hồng dâng mẹ 

    Vua Tự Đức - ông vua tại vị gặp cơn biến động trong lịch sử dân tộc, sinh thời nhà vua đã tán dương công ơn mẹ: “Nuôi ta là mẹ, dạy ta cũng là mẹ: Mẹ là Thầy vậy. Sinh ra ta là mẹ, hiểu ta cũng là mẹ: Mẹ là Trời vậy”.