Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.
Gs Hoàng Xuân Nhị [năm 1955]
Thấy sách mới, tôi háo hức hỏi thầy: "Chú ơi, sách gì thế ạ? Cho cháu xem với.” Tôi cầm cuốn sách trên tay: Lịch sử văn học Nga thế kỷ XIX, tập I, tác giả là Hoàng Xuân Nhị. Chú Ba giải thích: "Ông Hoàng Xuân Nhị là người Hà Tĩnh với chú, bà con ông Hoàng Xuân Hãn, nay đang là Giáo sư ở Trường Đại học Tổng hợp ngoài Hà Nội, Cử nhân văn chương ở Đức về đấy. Đây là cuốn sách văn học Nga đầu tiên ở nước ta đấy.” Ít hôm sau, chú cho tôi mượn cuốn sách, tôi đọc ngấu nghiến. Lần đầu tiên tôi biết đến khái niệm văn học Nga với các tên tuổi các tác gia: Pushkin, Lermontov, Gogol,… và tôi nhớ cho đến hôm nay câu thơ Pushkin mà tác giả dịch:
Tôi yêu Tổ quốc tôi, một tình yêu kỳ lạ
Mà lý trí tôi không cưỡng nổi bao giờ
Những tục truyền huyền bí tự ngàn xưa
Sự bình thản đầy tự hào tin tưởng.
Rồi cơ may tôi được nhập học Khoa Ngữ văn một năm sau đó (1961).
Tựu trường một ngày mưa, tôi thấy thầy Nhị lần đầu tiên ở Đại giảng đường 19 Lê Thánh Tông khi thầy Giám đốc (Hiệu trưởng) Ngụy Như Kontum giới thiệu các khoa trưởng. Thầy đứng dậy, quay xuống mỉm cười đáp lễ. Chúng tôi cũng đứng dậy. Dáng cao lớn, mái đầu bạc trắng, da dẻ hồng hào, đôi mắt sáng, nụ cười hiền hậu, thầy mặc một cái áo cộc tay ba túi màu trắng và chiếc quần xanh công nhân xắn một gấu. Rất giản dị nhưng vẻ sang trọng. Năm ấy thầy vừa 47 tuổi và cũng vừa được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm khoa Khoa học Xã hội (Văn + Sử) của Trường mà tiền nhiệm là các thầy Đặng Thai Mai, Trần Đức Thảo và Trần Văn Giàu. Hình ảnh thầy theo tôi suốt đời về biểu tượng một vị Giáo sư Khoa trưởng. Hình ảnh ấy cũng gợi cho tôi một thang giá trị mà sau này tôi may mắn được theo và gắng phấn đấu trong sự nghiệp chuyên môn của mình. Nhưng phải 35 năm nữa...
Cuối buổi lễ nhập trường, thầy dẫn đám sinh viên mới đi thăm thư viện (Hội trường Lê Văn Thiêm bây giờ) với câu phát ngôn rất lạ: "Các đồng chí theo mình”. Đời thuở từ khi lớn lên, đèn sách ở trường phổ thông, tôi chưa thấy thầy cô nào gọi học trò bằng đồng chí cả. Nhưng thầy thì suốt đời gọi chúng tôi như vậy.
Giảng đường đại học đối với chúng tôi có nhiều sự lạ. Lạ nhất là không khí học tập hăng hái, chăm chỉ. Tuy quần nâu, áo vải, nhiều người còn đi chân đất nhưng lũ sinh viên chúng tôi nhiệt tình và ý chí không kém. Ngoài thầy Nhị, thầy Bạch Năng Thi, thầy Hoàng Như Mai, thầy Lê Đình Kỵ, thầy Đinh Gia Khánh, thầy Đỗ Đức Hiểu ngoại bốn mươi thì các thầy trong khoa đều trẻ và thân thiết với sinh viên.
Qua các thầy, chúng tôi mới biết thầy Nhị ở quê nghèo Hà Tĩnh, chăm học từ nhỏ, sau khi đỗ tú tài thì được học bổng sang Pháp rồi sang Đức học tiếp, đỗ cử nhân văn chương. Rất giỏi tiếng Pháp và tiếng Đức, thầy đã dịch Chinh phụ ngâm khúc ra tiếng Pháp và được khen, được thưởng. Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, đáng lẽ học tiếp chương trình Tiến sĩ thì thầy về nước. Thầy chọn bưng biền Nam Bộ để theo nghiệp kháng chiến. Thầy làm công tác văn hóa, giáo dục gần Xứ ủy Nam Bộ những năm gian khó rồi trở thành cán bộ cốt cán và Giám đốc Sở Giáo dục Nam Bộ trước khi đi tập kết. Một lần đến lớp, tôi thấy thầy đeo một huy hiệu lạ, không phải huân chương hay huy chương, hỏi ra mới biết đấy là huy hiệu “Thành đồng Tổ quốc” tặng cho những người kháng chiến chín năm có thành tích ở Nam Bộ, thầy rất tự hào. Ở khoa Ngữ Văn còn có một người nữa có huy hiệu đó là thầy Nguyễn Hàm Dương, nguyên chiến sĩ đoàn tàu không số chở vũ khí từ Thái Lan đến khu 9 cùng thời.
Thầy Nhị chưa dạy chúng tôi ngay. Phải đến năm thứ ba và thứ tư thì thầy mới lên lớp cho chúng tôi hai môn. Tuy nhiên, trước đó, trên cương vị Khoa trưởng, thầy dùng uy tín của mình thường xuyên mời nhiều học giả danh tiếng đến khoa thuyết giảng cho sinh viên: Đặng Thai Mai, Cao Xuân Huy, Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh, Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên,… nhờ đó chúng tôi học được khá nhiều kiến thức và thực tế. Là sinh viên chúng tôi đâu dám đến gần thầy mà chỉ gặp thầy ở văn phòng khi có việc phải xin phép hay lảng vảng xem thầy đánh bi-a với anh Phan Trác Cảnh, trợ lý chuyên nghiệp của thầy (sau này là ông chủ hiệu sách cũ nổi tiếng số 5 phố Bát Đàn, Hà Nội) ở hành lang khoa. Thầy hay cười và vẫy chào chúng tôi.
Khoa Ngữ văn ngày ấy đóng ở làng Láng trong một khuôn viên thanh bình rộng rãi (bao gồm đất đai của hai trường: Đại học Ngoại thương và Ngoai giao hôm nay) với không gian sống, học tập và hoạt động thật thoải mái, cho dù còn rất nghèo. Trong hai năm học, thầy Nhị đã dạy cho chúng tôi hai giáo trình và chuyên đề: Văn học Nga Xô viết và Phê bình mỹ học. Thầy đã nhường văn học Nga thế kỷ 18-19 cho nhóm thầy trẻ: Nguyễn Kim Đính, Nguyễn Trường Lịch, Trương Quang Chế, Bùi Xuân An.
Buổi lên lớp đầu tiên của thầy, chúng tôi háo hức vì được học với GS Chủ nhiêm khoa. Còn thầy thì bình thản nhẹ nhàng. Vẫn trang phục truyền thống như năm trước: áo cộc ba túi và quần xanh công nhân. Thầy cầm cái tẩu nhỏ gõ nhẹ vào hộp sắt đựng thuốc lá trên tay. Thầy hiền từ nhìn chúng tôi và nói nhẹ đủ nghe: "Mình dùng tiết đầu để tâm sự với các đồng chí”. Thầy không bắt đầu bằng học thuật mà bằng lòng yêu nước của người trí thức. Thầy bảo các đồng chí lớn lên trong một nước đã độc lập, không thấy hết cái khổ của người mất nước. Thầy kể: Một đêm giao thừa dương lịch ở Paris trước Thế chiến thứ hai, nhóm sinh viên quốc tế tổ chức liên hoan, mỗi người kể một câu chuyện về quê hương mình, sau đó các bạn đề nghị mọi người giới thiệu quốc kỳ và hát quốc ca nước mình. Đến lượt mình, thầy lúng túng và đau khổ. Giới thiệu cái gì đây khi nước mất? Nuốt nước mắt vào trong, thầy kể về lá cờ dựng ở hội làng và hát một khúc ngắn dân ca Nghệ - Tĩnh. Các bạn hoan nghênh còn thầy thì khóc. Lớp chúng tôi chùng hẳn xuống.
Thầy căn dặn chúng tôi vài điều: Gắng học cho dân, cho nước và cho mình. Vì thế phải nâng cao khả năng tự học và trau dồi ngoại ngữ. Không có hai thứ ấy thì không phát triển được. Thầy kể là thầy đã từng học thuộc từ điển Larousse để tự đọc sách và dịch thuật, đêm đông phải nhúng chân vào chậu nước lạnh để tỉnh ngủ mà ngồi học (lớp tôi có một sinh viên đã học thuộc được Từ điển Nga-Việt của Nguyễn Năng An - sinh viên ấy là nhà thơ Anh Ngọc giỏi giang sau này). Thầy đã tự học tiếng Nga trong nửa năm để rồi đọc sách viết Lịch sử văn học Nga và dịch bộ Mỹ học mác xít. Thầy đã gây cảm hứng mạnh mẽ trong nhóm sinh viên chúng tôi lúc đó.
Phải nói thực là thầy, cũng như thầy Lê Đình Kỵ, không phải là những diễn giả hùng biện, nhưng các bài giảng của thầy với lối nói nhỏ nhẹ, chậm rãi rất “chất” trong các phân tích sâu và những thông tin thầy cung cấp. Thầy phân tích cho chúng tôi rất sâu sắc về Gorky với các thiên truyện Người mẹ, Chim ưng, Trái tim Đan cô,… bi kịch lịch sử của các nhân vật của Solokhov trong Sông Đông êm đềm, Đất vỡ hoang, Số phận con người,… những điều thật mới mẻ và đáng nhớ. Khi giảng văn học Nga, nhờ tri thức uyên bác về văn học phương Tây, thầy luôn cho chúng tôi nghe những phân tích so sánh với văn học Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha. Qua lời thầy, chúng tôi biết các vở kịch thơ trong văn học Anh của Sếchxpia được tái hiện trong tiếng Pháp và tiếng Đức nhờ tài năng của Charles Hugo (con trai Victor Hugo) và nhà thơ Đức Sleghen.
Khi giảng về Phê phán Mỹ học hiện đại, thầy không quên dẫn chúng tôi từ Mỹ học cổ đại Hy Lạp qua Phục hưng đến thời cận đại, cả mỹ học Nga của Secnưsepxki. Một lần thầy hỏi chúng tôi: Có ai biết nguồn gốc của phát ngôn: Mọi lý thuyết đều xám cả, còn cây đời thì mãi mãi xanh tươi?”. Tôi thì nghĩ một triết gia nào đó. Một bạn tôi trả lời: "Câu ấy của Gớt ạ”. Thầy bảo đúng nhưng người ta đã dịch không sát. Rồi giải thích: "Đó là câu nói của quỷ Mephixto với ông bác sĩ trong truyện thơ Phaoxtơ của Gớt khi ca ngợi vẻ đẹp của cơ thể người đàn bà. Nguyên văn không phải là "cây đời mãi mãi” mà đúng ra là "cây vàng của cuộc sống thì…”. Học thì phải hành, thầy bắt chúng tôi viết tiểu luận nhận xét thẩm mỹ vể tác phẩm: "Truyện núi đồi và thảo nguyên” của Aitmatov qua hai truyện ngắn: "Người thầy đầu tiên” và “Cây phong non trùm khăn đỏ”, xêmine vài buổi, mỗi đứa trình bày ý riêng rồi thầy mới cho điểm.
Trên quan điểm học thuật, thầy luôn chính thống, không mấy chia sẻ mỹ học với phái Hegel trẻ và chủ nghĩa tự do của Garodi, Lucas,… Thầy rất nghiêm và có tính nguyên tắc. Một lần, trong lớp, một anh lớn tuổi (sau này là cán bộ phòng tổ chức) bị thầy mời ra khỏi lớp và không cho học tiếp chuyên đề nữa vì tội… cười tếu trong lớp khi thầy đang giảng về một vấn đề lý luận quan trọng. Thầy ra cho chúng tôi những đề thi khá khó và cho điểm cũng khá chặt.
Đời sinh viên kết thúc trong ầm ào của chiến tranh (1965) tôi được ở lại trường làm cán bộ giảng dạy, dưới "trướng" của thầy nhưng ở một chuyên môn khác là Ngôn ngữ học. Nhà trường phải rời Hà Nội tản cư lên rừng núi Việt Bắc, tại huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Chúng tôi già trẻ theo thầy vào cuộc sống mới. Đến nơi hạ trại, thầy đã nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống thời chiến, để lại Hà Nội chiếc xe máy Simson quen thuộc thầy đã đi nhiều năm. Thầy tham gia với chúng tôi đào hầm, làm nhà nứa lá, thắp đèn dầu đọc sách. Thầy vẫn chậm rãi, ung dung và vui vẻ, có hôm đi nhận gạo ăn, mưa to suối lũ lớn thầy để ba lô gạo lên lưng trâu và nhờ sinh viên ôm chặt để trâu bơi qua suối. Chuyện này thành sự kiện khi sinh viên K8 viết “Sơ tán diễn nghĩa” tặng thầy đề từ một chương: "Hoàng chủ nhiệm cưỡi trâu qua suối”.
Nhóm giáo viên chúng tôi có thầy Hàm Dương, thầy Thuật và tôi ở chung nhà gần thầy Nhị dưới thung nên tôi có dịp gần gia đình thầy. Thầy cũng tích cực tăng gia với cây trồng vật nuôi. Thầy bảo: "Mình quen rồi, hồi chín năm ở bưng biền còn khổ hơn nhiều mà vẫn sống được”. Thầy hướng dẫn chúng tôi nuôi vịt lấy trứng bằng sắn tươi (phải luộc chín rồi mới thái ra cho vịt ăn), hơn chúng tôi thầy còn câu cá để cải thiện bữa ăn vì thầy đã quen kênh rạch Nam Bộ. Dầu thiếu thốn, thầy vẫn khuyên và nhắc chúng tôi chuyên cần đọc sách, tự học còn thầy vẫn mài miệt sách vở, viết lách, trong đó có viết vở kịch Kiều mà đội văn nghệ sinh viên K8 đi diễn các nơi, về cả… Hà Nội.
Tuy nhiên, thầy Nhị không chỉ là Giáo sư, thầy là Chủ nhiệm khoa, phải quán xuyến nhiều chuyện. Thời bình cũng như thời chiến, anh em rất nể thầy, muốn để thầy tập trung làm chuyên môn nên đã đỡ đần thầy nhiều việc. Tôi nhớ các thầy phó khoa: Trương Văn Vinh, Hoàng Hữu Yên, Tôn Gia Ngân, Nguyến Văn Tu, Đỗ Đức Hiểu, và các trợ lý: Phan Trác Cảnh, Nguyễn Xuân Hòa, Bùi Khánh Thế, Nguyễn Ngọc Sơn,… nối tiếp nhau hết mình lo việc cho thầy khiến cho thầy có lúc cũng không nhớ việc và ít để ý đến chi tiết. Tôi nhớ, mùa hè năm 1972 chiến tranh ác liệt, bom Mỹ liên miên, trường và khoa lại một lần nữa phải chuyển lên Hiệp Hòa, Hà Bắc. Một hôm, tôi mang lương đến cho thầy. Nhận xong thầy hỏi: "Thế đồng chí có biết khoa ta nay đang ở đâu không? Mình muốn đi thăm anh em”. Tôi hơi ngỡ ngàng nhưng hiểu ra ngay bèn nói với thầy các thông tin. Hôm sau, mới 4 giờ sáng, thầy đã đạp xe đạp một mạch lên Hà Bắc thăm anh em và kiểm tra khoa. Lại một chuyện khác nữa. Hồi ở Đại Từ, một hôm tôi sang nhà thầy đổi gạo lấy mỳ, thầy nói với tôi: "Các đồng chí trẻ nên giữ nghiêm kỷ luật sinh hoạt Đảng, mình đi họp đều mà ít thấy gặp đồng chí”. Tôi thanh minh: "Thưa thầy, em có là đảng viên đâu ạ”. Bình thản thầy bảo: "Vậy à, thế thì phải gắng lên. Để mình giới thiệu cho”. Tôi vội thưa: "Dạ không được đâu ạ, thầy sinh hoạt ở tổ khác còn em là bên ngôn ngữ quản ạ”. Thầy lại bảo: "Sao thế, mình là đảng viên, lại là thủ trưởng ở đây sao không được, mình biết hết anh em mà.” Thầm cảm ơn thầy nhưng tôi không dám nói tiếp nữa sợ thầy phật ý.
Năm thầy bảy mươi tuổi (1984), khoa ta mừng thọ thầy ở nhà ăn Ký túc xá Lò Đúc. Đang lúc khó khăn nhất, chỉ có chuối, kẹo bột và nước trà. Thầy vui và chúng tôi cũng vui. Anh Mã Giang Lân kính thầy:
Chén vui nhớ buổi hôm nay,
Chén mừng xin hẹn ngày thầy tám mươi.
Nhưng... thầy đã dừng lại ở tuổi 78.
Tiễn đưa thầy ở tòa nhà chính đường Lê Thánh Tông, tôi nhớ hình ảnh nhà cách mạng Hoàng Quốc Việt, đã yếu lắm có hai người đỡ, vẫn cố đến viếng thầy. Rồi GS Trần Đại Nghĩa cũng yếu không kém đến chia tay người bạn Ba Lê thuở ấy cùng về nước theo kháng chiến.
Một phần tư thế kỷ thầy đã đi xa, trong lòng chúng tôi ai cũng nhớ đến thầy, người thầy, người chủ nhiệm đáng kính thuở khoa hàn vi nhưng vô tiền khoáng hậu với cả một thế hệ.
Nguồn: Đinh Văn Đức - Văn Hóa Nghệ An
BỬU Ý
Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.
LÊ QUANG KẾT
Ký
Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).
VŨ THU TRANG
Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.
HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
Đoản văn
Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!
LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ
BÙI KIM CHI
Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.
KIM THOA
Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
(Hàn Mạc Tử)
NGUYỄN VĂN UÔNG
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên
(Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.
LÊ QUANG KẾT
Tùy bút
Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.
TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.
LÊ QUANG KẾT
Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.
HUY PHƯƠNG
Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên
(Tố Hữu)
PHAN THUẬN AN
Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.
MAI KIM NGỌC
Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.
HOÀNG HUẾ
…Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…
QUẾ HƯƠNG
Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.
THU TRANG
Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ
Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.