MAI VĂN HOAN
Ký họa của nhạc sĩ Lê Mạnh Thống
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo là một tác phẩm “tổng phổ” thông qua cuộc chơi đã sản sinh những “tập con” tác phẩm đầy mỹ tuệ. Sự hồn nhiên trong cuộc chơi hẳn là quy ước khắt khe nhất tạo ra ánh sáng chiếu soi sự thăng trầm và hoa lệ trong mỗi dòng thơ nốt nhạc của anh. Cuộc chơi ấy chừng như kéo dài đến khoảng thời gian vô ngần quý giá trên giường bệnh; vẫn nụ cười hồn nhiên khuất lấp nỗi đau, anh tạm biệt cái cuộc đời đã dành cho mình khoảng thời-không khá rộng để trưng bày những hình hài ý niệm thăm thẳm vui buồn. |
Những năm 80 của thế kỷ trước, Nguyễn Trọng Tạo đã nổi danh với bài hát Làng quan họ quê tôi (phổ thơ Nguyễn Phan Hách) và bài thơ Tản mạn thời tôi sống. Mỗi lần nghe tin anh vào Huế, tôi lại đạp chiếc xe đạp cọc cạch tìm anh. Cái chỗ tôi vừa đến thì được biết anh vừa mới đi, anh “thoắt ẩn, thoắt hiện như là tàn lửa khuya”. Ở Huế, thời đó anh có một số bạn thân như vợ chồng Hoàng Phủ Ngọc Tường - Lâm Thị Mỹ Dạ, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhà thơ Ngô Minh, nhà văn Nguyễn Quang Lập, nhà thơ Nguyễn Khắc Thạch… Một lần trong chiếu rượu, anh thổ lộ: Sao cứ ước một người yêu ở đó/ Để suốt đời quê ngoại hóa quê hương. Điều ước ấy không ngờ đã trở thành hiện thực mà tôi là người góp một phần nhỏ tác thành cho đôi uyên ương. Chuyện có hơi dài dòng, tôi chỉ xin kể văn tắt như sau: Tôi có quen với một cô giáo trẻ xinh đẹp, dạy môn sinh Đại học Nông lâm Huế, từng ra học cao học (sau đại học) với tôi ở Vinh. Biết nàng yêu thơ nên thỉnh thoảng tôi đưa nàng đi dự những buổi giao lưu, tiếp xúc với giới văn nghệ sĩ. Hôm đó là ngày 8/11/1986, tôi mời các nhà thơ: Hoàng Vũ Thuật, Ngô Minh, Đỗ Hoàng, Lê Đình Ty, Lý Hoài Xuân và nàng đến căn hộ tập thể của tôi ở trường Hai Bà Trưng dự sinh nhật Hải Kỳ. Thi sĩ Hải Kỳ bận dạy ở Đồng Hới (Quảng Bình) nên không có mặt. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo mới từ Vinh vào, nghe tin cũng đến góp vui. Rượu tôi đặt ở lò chị Hiếu. Nhà chị ở lưng chừng dốc Phú Cam. Rượu chị nấu bằng một thứ men khá đặc biệt. Văn nghệ sĩ Huế rất thích uống rượu của chị. Đồ mồi chủ yếu là nem và tré. Tré Huế làm bằng da lợn thái nhỏ dầm với gừng, tỏi, đường, mì chính, ớt, nước mắm. Nàng có mang theo món vả trộn lạc rang, mè (vừng) khá ngon. Thơ và nhạc. Rượu và em… Suốt cuộc vui, tôi bắt gặp Nguyễn Trọng Tạo và nàng “hai mắt cùng liếc, hai lòng cùng ưa”. Đến tháng sau, đám cưới của chàng và nàng được tổ chức gọn nhẹ ở Huế. Nguyễn Trọng Tạo sống ở Huế trọn 10 năm (1987 - 1997). Căn hộ vợ chồng anh ở đầu đường Nguyễn Huệ trở thành nơi tụ hội bạn bè. Anh có nuôi một bể cá nhưng chúng chưa kịp lớn đã nhảy hết vào bàn nhậu. Mỗi cuộc nhậu ít thì 5 người, nhiều thì hơn cả chục người. Khi anh chưa vào Huế không khí thi ca ở Cố đô đã hết sức sôi động. Có anh vào, không khí thi ca càng sôi động hơn. Phần lớn thơ anh em đọc cho nhau nghe trong chiếu rượu là thơ tình. Tôi nhớ có hôm thấy Lý Hoài Xuân quá thèm đọc thơ, Nguyễn Trọng Tạo nói đùa: Ai muốn đọc thơ thì bỏ tiền ra, cứ mỗi bài 5000đ. Nghe vậy, Lý Hoài Xuân không một chút do dự, rút ví đặt xuống chiếu rượu 15000đ để được đọc 3 bài. Lại thêm mồi, thêm rượu. Nhờ cái “sáng kiến” độc đáo ấy mà “cuộc vui đầy tháng, trận cười suốt đêm”. Nhưng cũng chính vì thế mà mấy bà vợ của các thi sĩ tửu đồ đã không ít lần nổi cơn tam bành. “Một đứa vợ la, chục đưa kinh!” Kinh chứ không phải là khinh. Kinh là sợ, sợ đến thất kinh hồn vía. Sợ là sợ thế thôi chứ “đánh chết nết không chừa”. “Phong trào tạm lắng” chỉ một đôi ngày rồi “phong trào lại lên”.
Nhờ một cuộc nhậu ở căn hộ tập thể khu nhà Đống Đa của vợ chồng Nguyễn Khắc Thạch mà Nguyễn Trọng Tạo làm được hai câu thơ “xuất thần”:
Sông Hương hóa rượu ta đến uống
Ta tỉnh, đền đài ngả nghiêng say.
Hôm sau, nghe bạn bè đọc lại hai câu thơ trên, Nguyễn Trọng Tạo gật gù khen mà không nhớ đó là thơ mình. Tôi đã đọc hàng trăm bài thơ viết về Huế nhưng hiếm thấy bài nào cô đọng như hai câu thơ này của Nguyễn Trọng Tạo. Nhà thơ tài cao, chí lớn Cao Bá Quát so sánh sông Hương như thanh kiếm dựng giữa trời xanh. Thi sĩ đa tình, lãng mạn Nguyễn Bính thì ví sông Hương như mái tóc buông hờ của cung nga. Còn Nguyễn Trọng Tạo - người ham chơi (theo cách gọi vui của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường) thì nhận ra “sông Hương hóa rượu”. Trên đất nước ta có hàng trăm dòng sông nhưng không phải dòng sông nào cũng “hóa rượu” như sông Hương. Nguyễn Trọng Tạo đã đến Huế và đã từng nếm thử chất men ấy. Thi sĩ đã ngà ngà hơi men. Làm say một người “ham chơi” như Nguyễn Trọng Tạo đâu phải dễ. Nhưng lần này thì anh say thật, say đến mức cả đền đài, lăng tẩm đều nghiêng ngả trước mặt anh. Trong những thi phẩm anh viết về Huế, ngoài hai câu thơ “xuất thần” trên, tôi đặc biệt yêu thích bài Con sông huyền thoại:
Con sông mình hạc xương mai
Vàng son in bóng đền đài hoa khôi
Đến đây tôi gửi bóng tôi
Vớt lên thì vỡ, tan rồi lại nguyên
Con sông mướt cỏ tóc tiên
Những đêm kỹ nữ bỏ quên nguyệt cầm
Vầng trăng lõa thể ướt đầm
Sẩy chân thi sĩ vớt nhầm mỹ nhân
Con sông đám cưới Huyền Trân
Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn
Hèn chi thơm thảo nỗi buồn
Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ
Con sông nửa thực nửa mơ
Nửa mong Lý Bạch nửa chờ Khuất Nguyên...
Vẻ đẹp kiêu sa, đài các, huyền ảo của sông Hương và xứ Huế được nhà thơ đặc tả khá tinh tế. Tôi cứ nghĩ mãi về cái “niềm riêng” mà tác giả đề cập đến trong bài thơ này. Lẽ thường đám cưới thì vui nhưng sao Huyền Trân lại buồn? Cái “dải lụa phù vân” bỏ quên trên nguồn có hàm ý gì? Nhà thơ chỉ gợi còn người đọc thì tự mình tìm câu trả lời. Cũng trong bài thơ này, Nguyễn Trọng Tạo có một số cách nói khá mới mẻ và ấn tượng: con sông có “mình hạc, xương mai”, nỗi buồn lại “thơm thảo”, niềm riêng thì “nhuộm tím hoàng hôn”…
Gắn bó với Huế suốt 10 năm, anh không chỉ để lại cho Huế mấy chục bài thơ, mấy chục ca khúc mà anh còn vẽ bìa, viết lời tựa cho nhiều thi hữu thân quen. Ảo ảnh - tập thơ đầu tay của tôi, xuất bản 1988 do anh chọn bài, viết lời tựa và vẽ bìa. Tôi vô cùng biết ơn anh!
Mỗi lần nhớ anh, nhớ về “một lứa bên trời” thuở ấy, tôi lại nhẩm đọc bài thơ Bạn bè ở Huế của anh:
bạn bè ở Huế đông vui lắm
túi đầy thơ tặng túi đầy trăng
thấy nhau là nhớ mùi rượu Hiếu
mưa nắng sá gì dốc Phú Cam
sẵn tiền vài lít chưa là bốc
trắng tay mươi xị dễ đâu gàn
vui chơi cũng lạ đông hơn họp
vàng nát không chừng cốc đã tan
đất trời lướt khướt dìu nhau bước
đắc đạo rượu ngon đắc đạo tình
bạn bè ở Huế thương nhau thiệt
một đứa vợ la... chục đứa kinh.
Năm 1997 Nguyễn Trọng Tạo trở lại Hà Nội làm tạp chí Âm Nhạc, báo Thơ, tạp chí Sao Việt… và anh vẫn còn viết tiếp những bài thơ về “bạn bè ở Huế”: “Đêm lang thang cùng Thanh Tú đượm buồn/ chuông điện thoại thở dài Văn Cầm Hải/ Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn viết văn bằng miệng/ Ngô Minh gửi bài lách tách nhấn i-meo…”.
M.V.H
(SHSDB32/03-2019)
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc Chim phương Nam, tạp bút của Trần Bảo Định, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ TP. HCM, 2017).
HỒ TẤT ĐĂNG
"Từ trong sâu thẳm tâm hồn mình, tôi bỗng nhận ra rằng, cũng như bao người khác, cả gia đình tôi đã góp máu để làm nên cuộc sống hôm nay, nếu còn tồn tại điều gì chưa thỏa đáng, chính bản thân tôi cũng có một phần trách nhiệm trong đó.” (Phạm Phú Phong).
PHẠM PHÚ PHONG
Có những thời đại lịch sử nóng bỏng riết róng, đặt những con người có tầm vóc, có lương tri và nhân cách luôn đứng trước những ngã ba đường, buộc phải có sự chọn lựa, không phải sự nhận đường một cách mơ hồ, thụ động mà là sự chọn lựa quyết liệt mang tính tất yếu và ý nghĩa sống còn của tiến trình lịch sử và số phận của những con người sống có mục đích lý tưởng, có độ dư về phẩm chất làm người.
BÙI NGUYÊN
Ngửa (Nxb. Hội Nhà văn, 2017) không đơn thuần chỉ là tập truyện ngắn với nhiều hoàn cảnh thân phận và sự trầm tư riêng biệt của cư dân Sài Gòn đã cùng tác giả đồng hành qua hơn nửa thế kỷ sinh cư trên cái thành phố vốn dĩ là trung tâm sinh hoạt sôi động năng nổ với đầy đủ hương vị sống. Đó là cảm nhận đầu tiên của tôi khi lần lượt mở từng trang của tập truyện ngắn ngồn ngộn hoài niệm của nhà văn Ngô Đình Hải.
NGUYỄN TRỌNG TẠO
1.
Trước khi có Hàn Mặc Tử, người ta chỉ biết có hai loài đáng trọng vọng là “Thiên thần” và “loài Người”. Nhưng từ khi có Hàn Mặc Tử, người ta mới biết còn có thêm một loài nữa, đó là “loài thi sĩ”.
NGUYỄN THỊ TỊNH THY
Bông hồng cho Mẹ của bác sĩ - thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc là một bài thơ hay về mẹ. Hay đến mức nào? Hay đến mức lặng người, lạnh người. Hay đến mức phải gọi đó là tuyệt tác.
LÊ MINH PHONG
(Nhân đọc Chậm hơn sự dừng lại của Trần Tuấn, Nxb. Hội Nhà văn, 2017)
TRẦN NGỌC HỒ TRƯỜNG
Tư tưởng văn học của Tản Đà (1889 - 1939) không thuần nhất mà là sự hỗn dung của “tư tưởng Nho gia, tư tưởng Lão Trang và tư tưởng tư sản”1.
MỘC MIÊN (*)
Là một trong những cây bút trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phan Thị Thanh Nhàn không chỉ là người có duyên thầm trong thơ mà còn có duyên kể chuyện đặc biệt là những câu chuyện dành cho lứa tuổi thiếu nhi.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Trong thơ trữ tình, lịch sử không tồn tại. Trường ca làm chúng tồn tại.
(Ý kiến của Nguyễn Văn Bổng, Xuân Cang, Nguyễn Kiên, Hà Minh Đức, Hoàng Ngọc Hiến)
Sách chuyên khảo “Sự ra đời của đế chế Nguyễn” của A.Riabinin tiến sĩ sử học Xô Viết nghiên cứu lịch sử xã hội - chính trị của Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX.
LÊ MINH PHONG
(Nhân đọc: Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương của Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nxb. Khoa học xã hội, 2017).
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Trong sách “Nhìn lại lịch sử”, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003, tác giả Phan Duy Kha viết bài “Một bài thơ liên quan đến lăng mộ vua Quang Trung”.
BÙI KIM CHI
“Tháng Tám năm Ất Dậu (1945)… Là công dân Việt Nam nên tôi đã tham gia phong trào chống xâm lăng…”. (Truyện ngắn Mũi Tổ).
TRƯƠNG THỊ TƯỜNG THI
Thuật ngữ triết luận gắn với tính trí tuệ hay tính triết lý trong văn học nói chung và trong thơ ca nói riêng xuất hiện từ rất sớm.
NGUYỄN THẾ QUANG
Nói đến nhà văn Nguyễn Khắc Phê thì không gì bằng đọc cuốn tự tuyện của anh. Số phận không định trước(*) đưa ta đi suốt cuộc hành trình sáng tạo nghệ thuật bền bỉ quyết liệt suốt năm chục năm qua của anh.
NGUYỄN HỮU SƠN
Thiền sư Vạn Hạnh (?-1018) gốc họ Nguyễn, người hương Cổ Pháp (nay thuộc phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), thuộc thế hệ thứ mười hai dòng Thiền Nam phương Tì Ni Đa Lưu Chi.