TẾ HANH
Trước Cách mạng tháng 8-1945 tôi chỉ gặp Thanh Tịnh có một lần mặc dầu tôi sống đến 8 năm ở Huế và Thanh Tịnh là một nhà văn nổi tiếng sinh trưởng ở Huế.
Ảnh: tư liệu
Những truyện ngắn như "Quê mẹ", "Am cu li xe" và những bài thơ như "Rồi một hôm", "Mòn mỏi" của Thanh Tịnh viết trước năm 1940 cả nước đều biết. Đó là một ngày vào khoảng 1941 khi tôi đang học năm thứ 1 ban tú tài trường Quốc Học Huế (tức trường Khải Định). Anh nói, anh rất thích những bài thơ của tôi sau khi báo "Ngày Nay" công bố giải thưởng văn học năm 1939 và có ý mời tôi cho một bài thơ để anh ra một tập san Tết. Tôi nói, tôi ít viết về đề tài Xuân Tết và đọc anh nghe bài "Phơi phới" có một ít hương vị xuân tôi viết năm 1941. Anh đồng ý và xin bài đó. Bài "Phơi phới" sau này tôi để vào tập "Hoa niên" gồm những bài thơ trong tập "Nghẹn ngào" cộng với những bài viết trong hai năm 1940 - 1941 và gửi ra Nhà xuất bản "Đời Nay", đến cuối năm 1944 mới ra đời.
Mấy tháng sau vào dịp xuân 1942 tôi nhận được tập san của anh trong đó có bài thơ tôi. Ở Huế tôi sống cuộc đời học sinh lo học lo thi. Còn Thanh Tịnh tuy viết văn viết báo nhưng nay đây mai đó lo cuộc sống làm ăn. Chỉ sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, tôi ở Liên khu 5 tập kết ra miền Bắc thì mới có dịp gặp Thanh Tịnh nhiều lần. Những lần gặp Thanh Tịnh tôi thấy anh là một người nói chuyện rất có duyên hay bông đùa và đọc những câu thơ hóm hỉnh trong những bài độc tấu nổi tiếng của anh.
Chỉ có một lần tôi và anh nói với nhau về thơ trữ tình, đó là vào khoảng trước giải phóng miền Nam tại căn phòng đầy đồ cổ của anh ở đường Lý Nam Đế thuộc trụ sở tạp chí Văn nghệ Quân đội. Tôi nhắc đến một trong những bài thơ đầu tiên của anh đã gây ấn tượng cho tôi: Bài "Rồi một hôm" của Thanh Tịnh. Tôi nói bài thơ anh tuy dựa theo tứ của bài thơ "Nếu ngày kia anh trở về" của nhà thơ Ma-e-tet-lin (Maeterlinck 1862-1949) nhưng tôi vẫn thấy cái chất Việt Nam và Thanh Tịnh trong đó. Thanh Tịnh nói: Khi mình đăng báo, mình đã ghi dựa theo tứ của Ma-e-tet-lin. Tôi nói đó là sự trung thực đáng quý của anh. Bây giờ Thanh Tịnh thử đọc bài thơ của mình và tôi đọc bài thơ tạm dịch của Ma-e-tet-lin thì sẽ thấy cái độc đáo của anh:
Thanh Tịnh bắt đầu với giọng cảm xúc:
Rồi một hôm nếu về cha hỏi
Mẹ ở đâu con biết nói sao?
- Con sẽ bảo: trông cha mòn mỏi
Mẹ từ trần sau mấy tháng đau.
Nếu cha hỏi sao nhà vắng vẻ
Mẹ khuyên con nên trả lời sao?
- Con hãy chỉ bình hương khói lẻ
Và trên bàn chỉ đĩa dầu hao.
Tôi ngắt lời anh và xin đọc hai đoạn đầu bài thơ của Ma-e-tet-lin mà tôi đã tạm dịch:
Nếu anh ấy trở về
Em nói gì hỡi chị?
- Nói người ta đợi anh
Cho đến giờ tắt nghỉ.
Nếu anh hỏi vì sao
Mà căn phòng vắng vẻ?
- hãy chỉ ngọn đèn tàn
Và cánh cửa mở hé.
Tôi nói với Thanh Tịnh, hai đoạn đầu của bài thơ "Rồi một hôm" của anh gần với 2 đoạn đầu của bài thơ "Nếu ngày kia anh trở về", chúng ta đọc tiếp hai đoạn sau thì sẽ thấy chỗ khác.
Thanh Tịnh đọc tiếp:
Nếu cha hỏi: Cây đào trước ngõ
Sao chỉ còn một gốc ngả nghiêng?
- Con hãy chỉ một cây đào nhỏ
Bên cây tùng rồi đứng lặng yên.
Và mồ mẹ nếu cha muốn biết
Phải hướng nào con nói cùng cha?
- Con hãy chỉ bầu trời xanh biếc
Và chân trời chỉ nội cỏ xa.
Tôi đọc tiếp hai đoạn sau của bài thơ Ma-e-tet-lin:
Nếu anh ấy nhìn em
Như người không biết rõ?
- Nói một người như em
Chắc anh ấy sẽ khổ.
Nếu anh hỏi chị thế nào
Trong những giờ phút chót?
- Em nói chị mỉm cười
Để cho anh khỏi khóc.
Thanh Tịnh nói: Ông nhận xét đúng quá, nhưng trong hai đoạn đó ông thích câu nào. Tôi thích nhất cái hình ảnh cây đào nhỏ như tượng trưng cho tương lai. Thanh Tịnh nói tiếp: Nhưng đoạn cuối của bài thơ Ma-e-tet-lin thì hay quá mình không thể nào bằng được. Tôi tiếp: 2 câu thơ: "Em nói chị mỉm cười. Để cho anh khỏi khóc" là hai câu tuyệt vời, nó làm cho bài thơ Ma-e-tet-lin thành bài thơ nổi tiếng nhất của ông. Sau đó tôi chào anh ra về, anh tiễn tôi và đọc bằng tiếng Pháp 2 câu thơ sau cùng của bài thơ Ma-e-tet-lin. Cả hai chúng tôi có ngờ đâu một năm sau miền Nam giải phóng trong đó có Huế của Thanh Tịnh và của tôi nữa.
Năm 1988 Thanh Tịnh từ biệt chúng ta tại Hà Nội. Tôi đã thay mặt anh chị em nhà thơ nhà văn đọc điếu văn tiễn anh.
Hà nội 27.2.1992
T.H.
(TCSH53/01&2-1993)
NGÔ THỊ Ý NHI
Ở Huế, có những buổi sáng cứ thích nằm nghe tiếng con nít rủ nhau đến trường ríu rít như chim. Bình yên đến lạ! Thành phố nhỏ bé, nhịp sống không vội vàng, những con đường hiền lành, êm ả trẻ con dễ dàng đi bộ.
Kỷ niệm 30 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989 - 22/12/2019) và 75 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2019)
PHẠM THUẬN THÀNH
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Năm Nhâm Tý (1672), chúa Trịnh xua 180 ngàn quân vào Nam, có ý vượt sông Gianh đánh chúa Nguyễn. Trấn thủ Bố Chính là Nguyễn Triều Văn hoảng sợ chạy vô Kim Long cấp báo với Hiền Vương (tức chúa Nguyễn Phúc Tần).
TÔN THẤT BÌNH
BÙI KIM CHI
Ngày xưa, cách đây 60 năm, ở đường Duy Tân Huế từ cầu Trường Tiền đi xuống, qua khỏi Morin (cũ), đi một đoạn, có một địa điểm mang cái tên nghe là lạ Ngọ Phạn Điếm. Càng lạ và đặc biệt hơn nữa, Ngọ Phạn Điếm chỉ đón khách vào ăn một bữa trưa (demi-pension) trong ngày là học sinh của Trường Nữ Trung học Đồng Khánh Huế mà thôi.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Bút ký
KỶ NIỆM 20 NĂM CƠN LŨ LỊCH SỬ 1999
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
NGUYỄN DƯ
Ngày xưa thi đỗ tiến sĩ… sướng lắm!
Nghe đồn như vậy. Ít ra cũng được vua biết mặt chúa biết tên. Được cả làng, cả tổng đón rước về tận nhà. Chữ nghĩa gọi là rước tiến sĩ vinh quy bái tổ.
PHI TÂN
Hồi trước, khi làng xã tôi còn đoàn đội tập thể hay hợp tác xã sản xuất nông nghiệp thì đàn trâu ở làng cũng của hợp tác luôn. Trâu được các hộ xã viên nhận về nuôi để ăn chia công điểm. Nhà mô có nuôi trâu thì con cháu trong nhà phải nghỉ học sớm để chăn trâu hàng ngày.
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Ngày thơ ấu tôi đã bao lần ngủ ngon giấc trong lời ầu ơ của mẹ:
Kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969 - 2019) và 50 năm Ngày mất của Người (02/09)
HỒ NGỌC DIỆP
Kỷ Niệm 72 Năm Ngày Thương Binh - Liệt Sĩ (27/7/1947 - 27/7/2019)
PHẠM HỮU THU
DƯƠNG PHƯỚC THU
Nhà thơ, nhà cách mạng Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại làng Hội An, nơi xưa kia thường gọi là Faifô (vì làng này ở gần cửa Đại An nên quen gọi Hải Phố mà ra thế) nay Hội An đã lên cấp là thành phố thuộc tỉnh Quảng Nam; quê nội Nguyễn Kim Thành ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
NGUYỄN THƯỢNG HIỀN
Dáng thế của đồi Hà Khê như một con linh thú vừa tách khỏi đất mẹ, rời tổ uống mấy ngụm nước bên bờ dòng Linh Giang. Quay đầu hướng về quê mẹ, đất tổ Trường Sơn như một lời từ biệt, lòng rộn buồn vui. Một nhát gươm chí mạng của thuật sĩ Cao Biền, thân thú mang nặng vết thương vẫn còn hằn sâu ở chân đồi.
ELENA PUCILLO TRUONG
(Viết cho những người bạn cầm phấn)
Kỷ niệm Ngày báo chí Cách mạng Việt Nam 21/6
NGUYỄN XUÂN HẢI
ĐÔNG HÀ
33 năm đổi mới trong Văn học Thừa Thiên Huế
NGUYỄN ĐỨC HÙNG
Một chiều cuối năm 2018, tôi nhận được tấm thiệp mời nhân dịp Lễ mừng tuổi chín mươi của nhà giáo Trần Thân Mỹ và kỷ niệm 65 năm ngày cưới của ông bà Trần Thân Mỹ và Dương Thị Kim Lan. Nếu tính từ mốc tôi được ông đặt bút ký vào hồ sơ chuyển ngành từ Quân đội về làm việc tại Phòng Văn hóa Thông tin (VHTT) thành phố Huế là tròn 35 năm, trong đó có 7 năm (1983 - 1990) tôi được làm việc trực tiếp với ông trước khi ông nghỉ hưu. Ông là vị thủ trưởng khả kính đầu tiên của tôi, là người đã giáo dục, đào tạo và có ảnh hưởng rất lớn đối với tôi.
VŨ SỰ
Ngày xưa, chuyện “chồng già vợ trẻ” cũng là chuyện thường tình. Xứ Huế đầu thế kỷ 20, cũng có những chuyện thường tình như thế. Nhưng trong những chuyện thường tình ấy, cũng có vài chuyện “không thường tình”, ngẫm lại cũng vui.