Nhớ lại một buổi nói chuyện thơ với Thanh Tịnh

15:42 05/04/2022

TẾ HANH

Trước Cách mạng tháng 8-1945 tôi chỉ gặp Thanh Tịnh có một lần mặc dầu tôi sống đến 8 năm ở Huế và Thanh Tịnh là một nhà văn nổi tiếng sinh trưởng ở Huế.

Ảnh: tư liệu

Những truyện ngắn như "Quê mẹ", "Am cu li xe" và những bài thơ như "Rồi một hôm", "Mòn mỏi" của Thanh Tịnh viết trước năm 1940 cả nước đều biết. Đó là một ngày vào khoảng 1941 khi tôi đang học năm thứ 1 ban tú tài trường Quốc Học Huế (tức trường Khải Định). Anh nói, anh rất thích những bài thơ của tôi sau khi báo "Ngày Nay" công bố giải thưởng văn học năm 1939 và có ý mời tôi cho một bài thơ để anh ra một tập san Tết. Tôi nói, tôi ít viết về đề tài Xuân Tết và đọc anh nghe bài "Phơi phới" có một ít hương vị xuân tôi viết năm 1941. Anh đồng ý và xin bài đó. Bài "Phơi phới" sau này tôi để vào tập "Hoa niên" gồm những bài thơ trong tập "Nghẹn ngào" cộng với những bài viết trong hai năm 1940 - 1941 và gửi ra Nhà xuất bản "Đời Nay", đến cuối năm 1944 mới ra đời.

Mấy tháng sau vào dịp xuân 1942 tôi nhận được tập san của anh trong đó có bài thơ tôi. Ở Huế tôi sống cuộc đời học sinh lo học lo thi. Còn Thanh Tịnh tuy viết văn viết báo nhưng nay đây mai đó lo cuộc sống làm ăn. Chỉ sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, tôi ở Liên khu 5 tập kết ra miền Bắc thì mới có dịp gặp Thanh Tịnh nhiều lần. Những lần gặp Thanh Tịnh tôi thấy anh là một người nói chuyện rất có duyên hay bông đùa và đọc những câu thơ hóm hỉnh trong những bài độc tấu nổi tiếng của anh.

Chỉ có một lần tôi và anh nói với nhau về thơ trữ tình, đó là vào khoảng trước giải phóng miền Nam tại căn phòng đầy đồ cổ của anh ở đường Lý Nam Đế thuộc trụ sở tạp chí Văn nghệ Quân đội. Tôi nhắc đến một trong những bài thơ đầu tiên của anh đã gây ấn tượng cho tôi: Bài "Rồi một hôm" của Thanh Tịnh. Tôi nói bài thơ anh tuy dựa theo tứ của bài thơ "Nếu ngày kia anh trở về" của nhà thơ Ma-e-tet-lin (Maeterlinck 1862-1949) nhưng tôi vẫn thấy cái chất Việt Nam và Thanh Tịnh trong đó. Thanh Tịnh nói: Khi mình đăng báo, mình đã ghi dựa theo tứ của Ma-e-tet-lin. Tôi nói đó là sự trung thực đáng quý của anh. Bây giờ Thanh Tịnh thử đọc bài thơ của mình và tôi đọc bài thơ tạm dịch của Ma-e-tet-lin thì sẽ thấy cái độc đáo của anh:

Thanh Tịnh bắt đầu với giọng cảm xúc:

Rồi một hôm nếu về cha hỏi
Mẹ ở đâu con biết nói sao?

- Con sẽ bảo: trông cha mòn mỏi
Mẹ từ trần sau mấy tháng đau.
Nếu cha hỏi sao nhà vắng vẻ
Mẹ khuyên con nên trả lời sao?

- Con hãy chỉ bình hương khói lẻ
Và trên bàn chỉ đĩa dầu hao.

Tôi ngắt lời anh và xin đọc hai đoạn đầu bài thơ của Ma-e-tet-lin mà tôi đã tạm dịch:

Nếu anh ấy trở về
Em nói gì hỡi chị?

- Nói người ta đợi anh
Cho đến giờ tắt nghỉ.
Nếu anh hỏi vì sao
Mà căn phòng vắng vẻ?

- hãy chỉ ngọn đèn tàn
Và cánh cửa mở hé.

Tôi nói với Thanh Tịnh, hai đoạn đầu của bài thơ "Rồi một hôm" của anh gần với 2 đoạn đầu của bài thơ "Nếu ngày kia anh trở về", chúng ta đọc tiếp hai đoạn sau thì sẽ thấy chỗ khác.

Thanh Tịnh đọc tiếp:

Nếu cha hỏi: Cây đào trước ngõ
Sao chỉ còn một gốc ngả nghiêng?

- Con hãy chỉ một cây đào nhỏ
Bên cây tùng rồi đứng lặng yên.
Và mồ mẹ nếu cha muốn biết
Phải hướng nào con nói cùng cha?

- Con hãy chỉ bầu trời xanh biếc
Và chân trời chỉ nội cỏ xa.

Tôi đọc tiếp hai đoạn sau của bài thơ Ma-e-tet-lin:

Nếu anh ấy nhìn em
Như người không biết rõ?

- Nói một người như em
Chắc anh ấy sẽ khổ.
Nếu anh hỏi chị thế nào
Trong những giờ phút chót?

- Em nói chị mỉm cười
Để cho anh khỏi khóc.

Thanh Tịnh nói: Ông nhận xét đúng quá, nhưng trong hai đoạn đó ông thích câu nào. Tôi thích nhất cái hình ảnh cây đào nhỏ như tượng trưng cho tương lai. Thanh Tịnh nói tiếp: Nhưng đoạn cuối của bài thơ Ma-e-tet-lin thì hay quá mình không thể nào bằng được. Tôi tiếp: 2 câu thơ: "Em nói chị mỉm cười. Để cho anh khỏi khóc" là hai câu tuyệt vời, nó làm cho bài thơ Ma-e-tet-lin thành bài thơ nổi tiếng nhất của ông. Sau đó tôi chào anh ra về, anh tiễn tôi và đọc bằng tiếng Pháp 2 câu thơ sau cùng của bài thơ Ma-e-tet-lin. Cả hai chúng tôi có ngờ đâu một năm sau miền Nam giải phóng trong đó có Huế của Thanh Tịnh và của tôi nữa.

Năm 1988 Thanh Tịnh từ biệt chúng ta tại Hà Nội. Tôi đã thay mặt anh chị em nhà thơ nhà văn đọc điếu văn tiễn anh.

Hà nội 27.2.1992
T.H.
(TCSH53/01&2-1993)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Báo Tin Tức Chúa Nhựt, 3.11.1940 mở đầu bằng mấy hàng như sau: “Hai mươi chín tháng Chín Annam (20 Octobre 1940). Thêm một ngày đáng ghi nhớ. Một người đã mất: cụ Sào Nam Phan Bội Châu

  • Với giọng văn sinh động, pha chút hài hước, hình minh họa ngộ nghĩnh, phù hợp với lứa tuổi học trò: “Chuyện kể về thầy trò thời xưa”, “Những tấm lòng cao cả” hay bộ văn học teen “Cười lên đi cô ơi”… sẽ đem đến cho độc giả nhiều cung bậc cảm xúc và hoài niệm.

  • Trong tất cả các Ni sư Phật giáo mà tôi được biết và chịu ơn hoằng pháp vô ngôn, có lẽ người gần gũi với tôi nhất trong đời là Cố Đại Trưởng lão Ni chúng – Sư Bà Cát Tường - nguyên trụ trì chùa sư nữ Hoàng Mai ở Thủy Xuân – Huế.

  • LTS: Nhà thơ, nhà văn Thanh Tịnh năm 78 tuổi sức khỏe không còn như buổi thanh niên, nhưng ngòi bút của ông vẫn còn cái sung sức của một người đã từng yêu du lịch và làm nghề hướng dẫn khách du lịch toàn Đông Dương. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc những trang hồi ký đầy lý thú của Thanh Tịnh.

  • NGUYỄN XUÂN HOA

    Tôi không có dịp được học với thầy Phạm Kiêm Âu, người thầy nổi tiếng ở Huế, nhưng lại có cơ duyên cùng dạy ở trường nữ trung học Đồng Khánh với thầy trong các năm 1974 - 1975.

  • Vậy là nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh đã về cõi thiên thu giữa một sáng mùa thu Hà Nội lay phay gió mù u!...Trước khi chưa kịp được vuốt mắt, dường như đôi đồng tử của ông vẫn còn lưu giữ lại hình ảnh đau đáu về con sông Cụt quê nhà.

  • Với một tướng lãnh võ biền, thì mục tiêu cuộc dẹp loạn là đánh tan loạn quân, rồi ca khúc khải hoàn, ăn mừng chiến thắng.

  • PHÙNG TẤN ĐÔNG

    Đời của nó như thể bềnh bồng
    Cái chết của nó như thể an nghỉ

                               F.Jullien
    (Dẫn nhập cuốn “Nuôi dưỡng đời mình - tách rời hạnh phúc” - Bửu Ý dịch, 2005)

  • THANH TÙNG

    Hiệp định Genève ký kết, sông Bến Hải tưởng chỉ là giới tuyến tạm thời, không ngờ đã trở thành ranh giới chia cắt đất nước Việt Nam hơn 20 năm. Nỗi đau chia cắt và biết bao câu chuyện thương tâm, cảm động đã diễn ra ở đôi bờ Hiền Lương kể từ ngày ấy. Nhiều cuộc tình đẫm máu và nước mắt. Có những đôi vợ chồng chỉ ở với nhau đúng một đêm. Có người chồng Bắc vợ Nam, khi vợ được ra Bắc thì chồng lại đã vào Nam chiến đấu, đời vợ chồng như chuyện vợ chồng Ngâu.

  • Thưởng thức là ngưỡng cửa của phê bình. Chưa bước qua ngưỡng cửa ấy mà nhảy vào cầm bút phê bình thì nhất định mắc phải những sai lầm tai hại. Không còn gì ngượng bằng đọc một bài người ta đem dẫn toàn những câu thơ dở và những câu ca dao dở mà lại đi khen là hay”. (Vũ Ngọc Phan, trích từ Hồi ký văn nghệ, tạp chí Văn Học, Hà Nội, số 4 năm 1983, trang 168).

  • VƯƠNG TRÍ NHÀN

    I
    Hè phố Hà Nội vốn khá hẹp, chỉ có điều may là ở cái thành phố đang còn lấy xe đạp làm phương tiện giao thông chủ yếu này, người đi bộ có phần ít, phía các phố không phải phố buôn bán, vỉa hè thường vắng, bởi vậy, nếu không quá bận, đi bộ lại là cái thú, người ta có thể vừa đi vừa nghỉ, thoải mái.

  • Gặp người thư ký của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm xưa, tôi có dịp biết thêm những tình tiết mới quanh câu chuyện hơn 30 năm về trước khi tiểu thuyết “Búp sen xanh” của nhà văn Sơn Tùng được tái bản lần đầu.

  • THẾ TƯỜNG
                   

    "Quê hương là chùm khế ngọt
    cho con trèo hái cả ngày"

  • Một nhà báo Pháp sắp đến Việt Nam để tìm lại một di sản chiến tranh, nhưng ở một khía cạnh nhân văn của nó - đó là những con người, địa điểm từng xuất hiện trong các bức ảnh mà nữ phóng viên chiến trường nổi tiếng Catherine Leroy ghi lại trong cuộc tấn công Mậu Thân vào thành phố Huế. 

  • Thanh Minh là bút danh chính của Nguyễn Hưu(1), người làng Yên Tập, tổng Phù Lưu, huyện Can Lộc, nay là xã Tân Lộc, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

  • LTS: Nhà văn Lan Khai tên thật là Nguyễn Đình Khải, sinh năm Bính Ngọ 1906 ở Tuyên Quang, song lại có gốc gác dòng họ Nguyễn ở Huế. Ông nổi tiếng trên văn đàn Việt Nam từ những năm 1930 - 1945, được mệnh danh là “nhà văn đường rừng”, để lại hàng trăm tác phẩm văn học, trong đó có gần 50 cuốn tiểu thuyết.

  • Thực tế lịch sử gần 70 năm qua đã khẳng định rằng Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ và là kết quả tất yếu từ công lao to lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước.

  • Tháng Bảy âm. Tháng cô hồn. Mồng một âm đã rả rích mưa báo hiệu cho một tháng âm u của Tiết Ngâu. Sắp rằm, tâm trí chợt như hửng ấm khi tiếp được cái giấy Hà Nội mời dự lễ khánh thành nhà bia và Khu tưởng niệm đồng bào ta bị chết đói năm 1945. Chợt nhớ, công việc này đã manh nha từ hơn mười năm trước…

  • LTS: Nguyễn Hưu, bút danh Thanh Minh, sinh năm 1914, quê huyện Can Lộc, hoạt động báo chí và văn học từ những năm 1934 - 1935. Ông là nhà báo, nhà thơ, dịch giả Hán - Nôm, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, nhà quản lý văn hóa văn nghệ có nhiều thành tựu và cống hiến. Ông là Hội trưởng Hội văn nghệ Hà Tĩnh đầu tiên. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông [21.8], VHNA sẽ lần lượt đăng một số bài viết về ông.

  • Vùng quê nghèo chúng tôi nằm sát chân núi Hồng Lĩnh có Hàm Anh (nay là xóm 1 xã Tân Lộc) từng sản sinh ra một Tiến sĩ xuất thân Đệ nhị giáp (Hoàng giáp) (1499) đời Lê Hiến tông tên là Phan Đình Tá (1468-?)